1. Nhu cầu thực tiễn
Theo định nghĩa của các học giả trước đây, năng lực ngữ dụng định nghĩa khả năng sử dụng ngôn ngữ của người học một cách phù hợp và và khả năng điều chỉnh ngôn ngữ của họ dựa trên nhiều yếu tố văn hóa xã hội khác, ví dụ như các ngữ cảnh (trong cuộc họp, hội thoại giữa bạn bè, etc.), tầng lớp xã hội của người nói và người nghe, các mối quan hệ giữa những người tham gia và nhóm tuổi (Bachman & Palmer, 1996). Để giải thích thêm về thuật ngữ này, năng lực ngữ dụng được xác định là bao gồm hai thành phần quan trọng, bao gồm năng lực ngôn ngữ và năng lực ngôn ngữ xã hội (Nguyen, 2011). Năng lực ngôn ngữ đòi hỏi người nói hiểu và có thể sử dụng các lựa chọn ngôn ngữ khác để thực hiện cùng một chức năng giao tiếp cụ thể. Một ví dụ cụ thể là khi người học có được năng lực ngôn ngữ, họ sẽ hiểu rằng cả hai lựa chọn ngôn ngữ sau bao gồm ‘Tôi hoàn toàn không đồng ý’ (I completely disagree) và ’Tôi không chắc chắn về điều đó’ (I’m not sure about that) đều được sử dụng để thể hiện những bất đồng giữa người tham gia. Trong khi đó, nhận thức về các yếu tố văn hóa xã hội khác nhau có khả năng ảnh hưởng và ảnh hưởng đến các lựa chọn ngôn ngữ của họ sẽ được gọi là năng lực ngôn ngữ xã hội. Nhìn chung, năng lực ngữ dụng theo truyền thống được định nghĩa dựa trên việc người học có thể sử dụng ngôn ngữ một cách lịch sự và phù hợp vì ngôn ngữ của họ bị ảnh hưởng chủ yếu bởi nhiều yếu tố văn hóa xã hội.
Tầm quan trọng của năng lực ngữ dụng trước đó đã được kiểm chứng và nhấn mạnh trong lý thuyết về khổ khả năng ngôn ngữ giao tiếp (Communicative Language Ability) (Bachman, 1990; Bachman & Palmer, 1996). Cụ thể hơn, các học giả trên đã minh họa năng lực ngữ dụng như một thành phần không thể thiếu của hiệu quả giao tiếp, do đó chỉ ra ý nghĩa của nó trong phát triển ngôn ngữ của người học. Bên cạnh đó, các nhà ngôn ngữ học cũng chỉ ra và nhấn mạnh rằng những lỗi sai dẫn đến giao tiếp không hiệu quả, hay sự hiểu nhầm nghiêm trọng giữa người nói không phải hoàn toàn là do việc người học sử dụng ngôn ngữ sai ngữ pháp hay thiếu từ vựng. Thay vào đó, một trong những nguyên nhân tiềm ẩn và thường xuyên nhất lại chính là việc người học thiếu đi năng lực ngữ dụng để có thể đối chiếu và sử dụng ngôn ngữ sao cho thực sự hợp hoàn cảnh (Boxer & Pickering, 1995; Tulgar, 2016; Nguyen & Le, 2019). Để giảm thiểu các trường hợp này xảy ra và phát triển năng lực ngữ dụng cho học sinh, một số sách giáo khoa đã thiết thêm nhiều hoạt động học tập để sinh viên có thể đối chiếu ngôn ngữ của họ với những ngữ cảnh khác nhau (Nguyễn & Basturkmen, 2020). Tuy nhiên, các hoạt động này được thực hiện để có thể giúp học sinh tránh ‘bất lịch sự’ với người bản địa.
Xem xét tầm quan trọng của năng lực ngữ dụng, lĩnh vực này đã thu được những nỗ lực đáng kể trong nghiên cứu (Fatahi, 2004; McKay, 2009; Jenkins & Cogo & Dewey, 2011; Murray, 2012; Nguyễn & Le, 2019; Nguyễn & Basturkmen, 2020). Trong số những nghiên cứu này, có những học giả đã tập trung và nghiên cứu thường xuyên về việc so sánh hiệu quả của việc dạy và học năng lực thực dụng trong lớp (Fatahi, 2004; Kaivanpanah & Langari, 2020). Một số nghiên cứu khác thì lựa chọn nghiên cứu thêm về tài liệu học, cụ thể hơn là sách giáo khoa, với mục đích tìm hiểu sâu hơn liệu sách giáo khoa có thể giúp học sinh phát triển toàn diện về khả năng ngữ dụng (Meier, 1997; Liddicoat, 2004; McKay, 2009; Murray, 2012; McConachy, 2018; Nguyễn & Basturkmen, 2020). Các học giả nêu trên, khi nghiên cứu thêm về sách giáo khoa và tài liệu nói chung, đã thể hiện và ủng hộ tầm quan trọng của việc giảng dạy và chuyển qua khả năng ngữ dụng liên văn hóa, thay vì đi theo con đường truyền thống. Cụ thể hơn, những quan điểm truyền thống trước đây về năng lực thực dụng đã bị chỉ trích bởi những học giả trên, phần lớn bởi việc nó duy trì các chuẩn mực thực dụng (pragmatic norms) của người bản ngữ, đòi hỏi người học phải từ bỏ danh tính văn hóa của họ chỉ để tránh xúc phạm người bản địa (Abrams, 2020). Một ví dụ được nêu ra bởi Liddicoat (2004) khi ông đã từng chỉ trích sách giáo khoa vì áp đặt chuẩn mực về ‘sự lịch sự’ (politeness) hoàn toàn dựa trên quan điểm thuận lợi của người bản ngữ, mà người học được yêu cầu phải tuân thủ. Tương tự, Meier (1997) cũng đã chỉ ra rằng việc dán nhãn cho một số lựa chọn ngôn ngữ là ‘lịch sự’ hay ‘bất lịch sự’ là không hiệu quả, vì việc này sẽ củng cố quan điểm rằng người bản ngữ là tiêu chuẩn cho tính lịch sự và trang trọng. Trong khi đó, các nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy một khám phá hoàn toàn đối lập, điều này đã chứng minh rằng các nền văn hóa khác nhau sẽ có những tiêu chuẩn ngữ dụng (pragmatic norms) riêng biệt về tính ‘lịch sự’ trong giao tiếp (Ishihara & Tarone, 2009; McConachy & Fujino, 2021). Để giải thích cho điều này, McConachy (2018) cho rằng trong khi các cá nhân từ một xã hội coi trọng bình đẳng vai vế sẽ dễ dàng thấy việc sử dụng kính ngữ trong giao tiếp là cực kỳ mang tính bất lịch sự và khó hiểu, trong khi hiện tượng này sẽ phổ biến đối với các nền văn hóa khác. Vai trò của năng lực liên văn hóa đã được củng cố rõ ràng, đặc biệt là xem xét bối cảnh đương đại, trong đó tiếng Anh được sử dụng ngày càng như một thông ngữ (lingua franca) để giao tiếp với những người cũng đến từ cộng đồng sử dụng tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai, hoặc một ngoại ngữ. Bên cạnh đó, Graddol (2006) cũng đã đưa ra một ước tính quan trọng rằng châu Á sẽ tiếp tục phát triển thành một trong những cộng đồng nói tiếng Anh lớn nhất, so với các châu lục khác.
Do đó, nghiên cứu này sẽ tiến hành đánh giá sách giáo khoa, qua đó khám phá xem sách giáo khoa có thể giúp cho việc phát triển năng lực ngữ dụng liên văn hóa của học sinh hay không, để học sinh được trang bị với những kiến thức, kĩ năng và thái độ để có thể sử dụng ngôn ngữ hiệu quả trong bất kì tương tác liên văn hóa nào. Nhìn chung, có ba lí do thực tiễn để giải thích cho tầm quan trọng của nghiên cứu này.
Trước hết, qua quá trình nghiên cứu, tôi đã nhận thấy rằng lĩnh vực năng lực ngữ dụng liên văn hóa trong sách giáo khoa chưa được chú ý đến quá nhiều bởi các học giả khác. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu đánh giá sách giáo khoa đã không áp dụng góc nhìn liên văn hóa, thay vào đó đã đi theo đường hướng truyền thống (Vellenga, 2004; Ton Nu, 2017; Li, 2018). Trong một đánh giá sách giáo khoa của Vellenga (2004), mặc dù tác giả đã chỉ trích mạnh mẽ nội dung ngữ dụng của sách giáo khoa là không đầy đủ và chưa đủ sâu, tác giả đã kết luận rằng điều này sẽ dẫn đến việc người học rất có thể trở nên bất lịch sự trong mắt người bản xứ. Vậy nên nghiên cứu sau đây áp dụng góc nhìn liên văn hóa vào việc đánh giá nội dung ngữ dụng trong sách giáo khoa.
Lý do thứ hai thúc đẩy động lực cho nghiên cứu này là dựa trên bối cảnh giáo dục tiếng Anh ở Việt Nam. Theo chương trình Giáo Dục Phổ Thông (MOET, 2018), sau khi hoàn thành chương trình cấp ba, học sinh tại Việt Nam sẽ đạt được một số tiêu chuẩn đầu ra nhất định, một số tiêu chuẩn trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy sự nhạy cảm liên văn hóa và thái độ tôn trọng đối với các nền văn hóa khác trong các lớp học ngôn ngữ phổ thông. Bên cạnh đó, như đã đề cập ở trên, châu Á đã được dự đoán rằng sẽ có khả năng trở thành lục địa nói tiếng Anh lớn nhất (Graddol, 2006). Điều này một lần nữa nhấn mạnh nhu cầu quan trọng trong việc thúc đẩy năng lực thực dụng liên văn hóa trong các lớp học ngôn ngữ. Vậy nên, nghiên cứu này sẽ được thực hiện với mục tiêu xác định liệu có tồn tại bất cứ sự khác nhau, chưa đồng nhất nào giữa chính sách giáo dục được đề xuất bởi Bộ Giáo Dục và việc thiết kế sách giáo khoa tiếng Anh. Dựa trên những kết luận này, một số gợi ý về phương pháp giáo dục sẽ được đề cập ở chương cuối để tối đa hóa kết quả học tập của học sinh.
Cuối cùng, tôi đã phát hiện ra rằng những nghiên cứu trước có một cái nhìn khá hẹp về nội dung ngữ dụng trong các đánh giá sách giáo khoa trước đây. Cụ thể hơn, các học giả này phần lớn chỉ tập trung chủ yếu vào việc phân tích hành vi ngôn ngữ và thông tin siêu ngữ dụng (Ren & Han, 2017; Tran, 2020). Tuy nhiên, để phát triển năng lực thực dụng liên văn hóa, việc nghiên cứu và thiết kế sách không thể tập trung chỉ vào hai lĩnh vực trên, mà còn cần cả các khía cạnh khác, ví dụ như phân tích việc thiết kế các hoạt động học tập trong sách giáo khoa. Mặc dù nghiên cứu này cũng sẽ phân tích thông tin siêu ngữ dụng, nghiên cứu này cũng sẽ làm sáng tỏ các khía cạnh quan trọng khác, chẳng hạn như các loại hoạt động học tập và mô hình giao tiếp (ví dụ: L1-L1, L2-L2).
2. Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan
Đã có rất nhiều nghiên cứu tiến hành một cuộc điều tra về việc thể hiện kiến thức thực dụng trong sách giáo khoa EFL. Điều này sẽ được thảo luận chi tiết dưới đây, với những điểm nổi bật trên một số nghiên cứu nổi bật.
Vellenga (2004) đã thực hiện một nghiên cứu phân tích một loạt sách giáo khoa tiếng Anh, và tác giả đã tiếp tục đào sâu vào việc thể hiện các hành vi ngôn ngữ (speech acts) và việc thể hiện một số thông tin siêu ngữ dụng. Nghiên cứu đã đưa ra những gợi ý có giá trị và thiết thực cho việc thiết kế sách giáo khoa. Cuối cùng, Vellenga (2004) đã khẳng định rằng mặc dù sách giáo khoa đã cung cấp rất nhiều lựa chọn ngôn ngữ cho học sinh để biểu đạt những hành vi ngôn ngữ nhất định, những sách giáo khoa trên đều thiếu đi thông tin ngữ dụng quan trọng. Ví dụ, một số lựa chọn ngôn ngữ được cho là khá bất lịch sự, nhưng sách giáo khoa không hề đưa ra những thông tin nào bổ sung, hay giải thích thêm về những yếu tố văn hóa xã hội mà có thể ảnh hưởng đến việc này.
Tương tự, Ren and Han (2017) đã tiến hành đánh giá một loạt sách giáo khoa EFL cho sinh viên đại học ở Trung Quốc. Tác giả nhận thấy rằng việc phân phối và giảng dạy hành vi ngôn ngữ không được thiết kế dựa trên bất cứ nguyên tắc cụ thể nào. Nhìn chung, dựa trên những phát hiện của các nghiên cứu thực nghiệm trước kia, người đọc có thể quan sát thấy rằng một trong những phát hiện phổ biến nhất sẽ là sự thiếu hụt thông tin siêu ngữ dụng (Boxer & Pickering, 1995; Vellenga , 2004). Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu đã tìm hiểu về các hoạt động giảng dạy, cụ thể là các hoạt động có trong sách giáo khoa tiếng Anh.
3. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu này sẽ chỉ ra liệu có bất cứ sự khác biệt, hay bất đồng nhất nào giữa những chính sách giáo dục được đề ra bởi Bộ Giáo Dục vào năm 2018, dựa trên chương trình giáo dục phổ thông và việc thiết kế sách giáo khoa tiếng Anh. Từ đó, nghiên cứu sẽ đưa ra những gợi ý thực tiễn về việc thiết kế tài liệu cũng như giảng dạy năng lực ngữ dụng liên văn hóa trong các lớp học phổ thông.