Quan điểm của sinh viên trong việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để tự điều chỉnh việc học tiếng Nhật.

Trang chủ / Ngân hàng ý tưởng

Tổng quan
Nhu cầu thực tiễn Trong thời đại công nghệ 4.0, việc tích hợp công nghệ thông tin và truyền thông (Information and Communication Technology – ICT) vào giáo dục đã trở thành xu hướng toàn cầu. Theo báo cáo của UNESCO (2020), ICT không chỉ là công cụ hỗ trợ giảng dạy mà còn là yếu tố quan trọng để thúc đẩy học tập cá nhân hóa và phát triển kỹ năng số của người học. Trong đó, việc đào tạo ngoại ngữ có sự hỗ trợ của công nghệ Internet đã và đang xuất hiện ở các cấp đại học, trung học và dạy nghề ở nhiều nước trên thế giới. Ngay tại Việt Nam, việc ứng dụng công nghệ trong học tập cũng đang trên đà phát triển. Đặc biệt, các ứng dụng học ngôn ngữ như Duolingo, Flashcard, Quizlet,… đã thu hút hàng triệu người dùng trên toàn thế giới nhờ khả năng hỗ trợ học tập linh hoạt và phù hợp với nhu cầu cá nhân.

Tự điều chỉnh việc học (Self-Regulated Learning – SRL) đã trở nên phổ biến trong giáo dục khi các khái niệm học tập suốt đời và học tập cá nhân hóa trở nên phổ biến (Lewis & Vialleton, 2011). Các phương pháp theo dõi, đặt mục tiêu và kiểm soát của SRL được cho là rất quan trọng trong việc giúp học sinh xây dựng cảm giác kiểm soát cá nhân (Zimmerman, 2000). Kiểm soát quá trình học tập là một trong những biến số góp phần vào thành tích học tập (Lewis & Vialleton, 2011). Theo Zimmerman (2009), những người tự điều chỉnh việc học có khả năng chủ động hơn trong việc theo đuổi các mục tiêu học tập, điều này thúc đẩy người học nắm quyền kiểm soát quá trình học tập của mình. Zimmerman (2000) cũng đã khẳng định những người tự điều chỉnh việc học phải có mức độ tin tưởng vào năng lực xử lý những tình huống khó khăn của bản thân trong học tập cao và cam kết với mục đích học tập của họ. Quyền tự chủ và tự điều chỉnh (SR) của người học rất quan trọng để đạt được mục tiêu học tập của mình. SR của người học dẫn đến việc họ chấp nhận hoàn toàn trách nhiệm đối với các quyết định học tập của mình.

Các nghiên cứu trước đây cũng cho thấy SRL và ICT có liên quan đến nhau. Ý tưởng về SRL trong việc học ngôn ngữ đã được phát triển với sự ra đời của các công cụ công nghệ (Pintrich, 2000; Lai & Gu, 2011; Lai, 2013). Tiềm năng của các công cụ công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) cho việc học ngôn ngữ đã được phát hiện trong một nghiên cứu được tiến hành trong môi trường sử dụng công nghệ để nâng cao việc giảng dạy và học tập (Chapelle, 2010). Tại Việt Nam, các con số thống kê gần đây trong những nghiên cứu cũng cho thấy mối liên hệ giữa SRL và ICT, đặc biệt trong việc học ngoại ngữ. Nghiên cứu “Quan điểm của sinh viên tiếng Anh trong việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để tự điều chỉnh việc học tiếng Anh” (Vũ Việt Phương và cộng sự, 2022) cho thấy những người tham gia đã sử dụng và hào hứng với việc sử dụng các thiết bị ICT để quản lý việc học ngôn ngữ của họ. Một nghiên cứu khác của Thạch Tố Thuỳ Linh (2024) cũng chỉ ra rằng những người tham gia có nhận thức tích cực về những lợi ích mà ICT mang lại trong việc cải thiện trình độ tiếng Anh của họ và sinh viên tiếng Anh coi ICT là một công cụ hữu ích để tự cải thiện tiếng Anh.

Có rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề liên quan đến việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để tự điều chỉnh việc học ở các đối tượng khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu cụ thể quan điểm của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ – Đại học Quốc gia Hà Nội trong việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để tự điều chỉnh việc học tiếng Nhật.

Tiếng Nhật đã trở thành một trong 7 ngoại ngữ được dạy ở bậc phổ thông tại Việt Nam, cùng tiếng Anh, Nga, Pháp, Hàn Quốc, Trung Quốc, và gần đây là tiếng Đức. Đồng thời tiếng Nhật là ngoại ngữ phổ biến thứ hai, chỉ sau tiếng Anh trong hệ thống giáo dục phổ thông quốc gia. Nhu cầu học tiếng Nhật ngày càng lớn hơn không chỉ như một công cụ giao tiếp phục vụ cho nhiều mục đích như giáo dục, thương mại, chính trị,… và trong nhiều lĩnh vực khác nhau mà còn như một chuyên ngành để tìm hiểu về con người, ngôn ngữ và văn hoá của đất nước Nhật Bản. Theo khảo sát của Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản năm 2018, Việt Nam đứng thứ 6 thế giới về số lượng người học tiếng Nhật, với khoảng 174.000 người học, trong đó 31.200 người là sinh viên đại học, 26.200 người là học sinh trung học phổ thông và trung học cơ sở, 2.000 người là học sinh tiểu học, 115.000 học viên từ các trường tiếng và trung tâm đào tạo thực tập sinh. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều người gặp khó khăn trong việc học tiếng Nhật do đặc thù ngôn ngữ phức tạp.

Việc nghiên cứu đề tài đem lại rất nhiều lợi ích cho cả cá nhân và tổ chức. Đầu tiên, việc nghiên cứu cho thấy được thực trạng cũng như quan điểm về việc sử dụng ICT để tự điều chỉnh việc học tiếng Nhật của sinh viên. Từ đó, nghiên cứu giúp cá nhân từng sinh viên nhận thức được vai trò của ICT trong việc tự điều chỉnh việc học tiếng Nhật, cũng như có những biện pháp áp dụng ICT để cải thiện việc học tiếng Nhật.

Với những lý do trên, đề tài “Quan điểm của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản trong việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để tự điều chỉnh việc học tiếng Nhật” được lựa chọn để tiến hành nghiên cứu.

Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan
Các nghiên cứu ngoài nước Serkan Çelik, Erkan Arkın & Derya Sabriler tại Đại học Đông Địa Trung Hải, Bắc Síp. Nghiên cứu này chỉ ra rằng không có sự khác biệt lớn giữa việc sử dụng ICT cho học tập tự điều chỉnh giữa nam và nữ, cũng như giữa các cấp độ ngôn ngữ của người học. Dựa trên các phản hồi thu được, người học chủ yếu sử dụng ICT để luyện kỹ năng nghe, từ vựng và viết. (Serkan Çelik, Erkan Arkın & Derya Sabriler, 2012) Cici Adeliani đã tiến hành nghiên cứu nhằm tìm hiểu khả năng tiếp cận và tác động của các ứng dụng CNTT đối với việc học tiếng Anh của sinh viên Chương trình Nghiên cứu Giáo dục Tiếng Anh tại Đại học Bengkulu năm 2020/2021. Kết quả cho thấy sinh viên tiếp cận 15 ứng dụng CNTT và có nhận thức tích cực về vai trò của chúng trong việc nâng cao kỹ năng tiếng Anh. (Cici Adeliani, 2021) Nugrahani đã thực hiện nghiên cứu nhằm tìm hiểu quan điểm của sinh viên Chương trình Giáo dục Tiếng Anh đối với việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong một khóa học giảng dạy tiếng Anh (ELT). Kết quả cho thấy tất cả các sinh viên tham gia nghiên cứu đều đồng ý rằng việc học ICT là quan trọng đối với sinh viên ngành Giáo dục Tiếng Anh và có nhận thức tích cực về khóa học này. (Nugrahani, 2023)

Các nghiên cứu trong nước
Thach Pham, Phuong Lai & Vinh Nguyen đã tiến hành nghiên cứu nhằm khám phá mối quan hệ giữa ba yếu tố: hiệu quả sử dụng Internet, khả năng tự điều chỉnh trong học tập trực tuyến và sự tương tác trong quá trình học tập trực tuyến khẩn cấp trong thời kỳ Covid-19 tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hiệu quả sử dụng Internet là một yếu tố dự báo quan trọng đối với khả năng tự chủ của người học, cả trực tiếp và gián tiếp, thông qua ba hình thức tương tác: giữa người học với nội dung, giữa người học với giảng viên, và giữa người học với người học. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa sinh viên chuyên ngành ngôn ngữ và không chuyên ngôn ngữ, cũng như giữa những người có kinh nghiệm học trực tuyến trước đó và những người chưa có kinh nghiệm. Tuy nhiên, giới tính không có tác động đến các mối quan hệ này. (Thach Pham, Phuong Lai & Vinh Nguyen, 2021) Vũ Việt Phương và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu quan điểm của sinh viên học tiếng Anh về việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) để tự điều chỉnh quá trình học ngôn ngữ của họ. Kết quả nghiên cứu cho thấy người tham gia sử dụng ICT để quản lý những khía cạnh này trong việc học ngôn ngữ. Ngoài ra, sinh viên tỏ ra hào hứng khi sử dụng thiết bị ICT để đạt được mục tiêu, kiểm soát cảm xúc và quản lý tài nguyên, nhưng ít quan tâm hơn đến việc sử dụng công nghệ để tham gia vào học tập xã hội và giám sát siêu nhận thức. (Vũ Việt Phương và cộng sự, 2022) Thạch Tố Thuỳ Linh đã thực hiện nghiên cứu nhằm tìm hiểu quan điểm của sinh viên EFL về việc sử dụng ICT trong học tiếng Anh tại một trường đại học tư thục ở Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy các sinh viên có thái độ tích cực đối với việc sử dụng ICT trong quá trình học tiếng Anh. (Thạch Tố Thuỳ Linh, 2024)

Ý nghĩa
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu giúp nhà trường, giảng viên và sinh viên có cái nhìn thực tế về thực trạng và quan điểm về việc sử dụng ICT để tự điều chỉnh việc học tiếng Nhật của sinh viên. Những biện pháp chúng tôi đề xuất sẽ được thực nghiệm và triển khai rộng rãi trên tất cả các đối tượng sinh viên nhằm giúp họ cải thiện khả năng tự học tiếng Nhật của sinh viên.

Ý nghĩa khoa học
Củng cố thêm khung lý thuyết nghiên cứu về việc ứng dụng ICT để SRL trong học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Nhật. Đóng góp một sản phẩm khoa học là báo cáo toàn văn của sản phẩm nghiên cứu dài khoảng 30-40 trang.