Tổng quan
1. Nhu cầu thực tiễn
Dịch thuật có ý nghĩa to lớn đối với thế giới toàn cầu hóa và xã hội đa ngôn
ngữ của chúng ta (Saha, 2020). Về mặt văn học, dịch thuật mở rộng khả năng khám
phá suy nghĩ và cảm xúc của con người ở các xã hội khác nhau ở những thời điểm
khác nhau thông qua văn học (Grossman, 2011). Ngoài ra, cũng theo Saha (2020) thì,
dịch thuật đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối nền kinh tế và giáo dục toàn cầu.
Vì vậy, nhu cầu đào tạo dịch thuật ngày càng tăng cao. Theo Olvera-Lobo và cộng sự
(2005), trên thế giới, trong đó có Việt Nam, khối lượng tài liệu cần dịch cho mục đích
xuyên quốc gia ngày càng tăng lên. Do đó, chúng ta không thể nào không để mắt đến
tầm quan trọng của dịch thuật trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam. Ở Việt Nam,
việc đào tạo dịch thuật, phiên dịch chính quy và có hệ thống bài bản tại các cơ sở đào
tạo bắt đầu khá muộn so với thế giới (Lê, 2017), và việc đào tạo Biên-Phiên dịch giữa
các trường đại học không nhất quán. Lê (2017) chỉ ra rằng các trường đại học như Đại
học Duy Tân, Đại học Cần Thơ ở khu vực miền Trung và Tây Nam Bộ có sự đa dạng
hóa rõ ràng giữa các chuyên ngành. Nói cách khác, các trường đại học này đặc biệt
thiết kế chương trình đào tạo chuyên về Biên-Phiên dịch. Chẳng hạn, Đại học Duy
Tân có 4 khoa ngoại ngữ, mỗi khoa dều có chuyên ngành Biên phiên dịch. Mặt khác,
các trường đại học đào tạo ngoại ngữ lâu đời như Đại học Ngoại ngữ (ULIS), Đại học
Hà Nội, Học viện Ngoại giao Việt Nam, Đại học Ngoại thương (FTU), Đại học Ngoại
ngữ và Quốc tế (Đại học Huế) ), Trường Đại học Ngoại ngữ (Đại học Đà Nẵng) không
đào tạo chuyên ngành Biên-Phiên dịch chỉ được coi là một định hướng đào tạo. Trong
chương trình giảng dạy của các trường đại học này, môn Biên-Phiên dịch chỉ là một
trong những học phần của trường bên cạnh các học phần về ngoại ngữ, văn hóa và
ngôn ngữ chuyên ngành (Lê, 2022). Hơn nữa, chương trình đào tạo của các trường đại
học này chủ yếu dùng hai học kỳ cuối tập trung vào kỹ năng biên dịch và phiên dịch
(Lê, 2017).
Theo như tìm hiểu ở trên các trang web chính thức của các trường đại học về
chương trình đào tạo, môn biên dịch được giảng dạy khác nhau giữa các trường đại
học. Ví dụ, tại FTU, ngành môn biên dịch yêu cầu sinh viên dịch và viết các văn bản
có chủ đề liên quan đến các vấn đề kinh tế và xã hội như mở cửa và hội nhập các nền kinh tế, Tổ chức Thương mại Thế giới và các hiệp định thương mại tự do. Ngoài ra,
học phần còn trang bị cho học viên những từ vựng và cấu trúc cần thiết cho các chủ đề
dịch thuật. Mặt khác, tại Trung tâm Tin học và Ngoại ngữ – HOEIT (Đại học Huế),
các lớp học biên dịch cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về biên dịch
Anh – Việt, bằng nguồn tài liệu lấy từ các bản tin đề cập đến các vấn đề chính trị, xã
hội thời sự, tập trung vào từ vựng, cách diễn đạt và các cấu trúc điển hình được sử
dụng trong phong cách báo chí. Đối với trường Đại học Bách Khoa TP.HCM, Môn
biên dịch được áp dụng lý thuyết dịch thuật vào các bài tập thực hành ở mức độ nâng
cao dần dần như thực hành dịch các mẫu câu cơ bản và xử lý các loại mệnh đề thuộc
nhiều chủ đề khác nhau như văn hóa, giải trí, khoa học cơ bản, du lịch,vv.
Trong khuôn khổ Khoa SPTA- ĐHNN- ĐHQGHN, biên dịch bao gồm ba môn
học là Biên dịch, BDNC và biên dịch chuyên ngành. Biên dịch là môn học bắt buộc
được học trong học kỳ thứ 5 trước BDNC và biên dịch chuyên ngành – các môn tự
chọn. Ba môn học này đều nhằm mục đích cung cấp cho sinh viên kỹ năng biên dịch
về các chủ đề khác nhau như môi trường, du lịch và các chủ đề liên quan đến xã hội.
Phương pháp giảng dạy tương tự được sử dụng trong các môn học này với trọng tâm
là các hoạt động trong lớp như dịch văn bản, sau đó là nhận xét và phản hồi từ giáo
viên và bạn bè, cũng như các bài thuyết trình và bài tập về nhà. Tuy nhiên, mỗi môn
học đều có độ khó khác nhau. Trong học phần Biên dịch, sinh viên chỉ cần tiếp cận
những văn bản đơn giản có độ khó trung bình và học từ vựng của các chủ đề liên quan
cũng như tập trung chủ yếu vào việc học theo cá nhân. Trong khi đó, biên dịch chuyên
ngành sẽ chỉ dịch các văn bản về chủ đề kinh doanh quốc tế, tài chính ngân hàng và
văn hóa du lịch có chứa các thuật ngữ, từ vựng chuyên ngành và biệt ngữ. Môn học
này sẽ thiên về làm việc nhóm để thực hiện các dự án như trong thực tế công việc.
Mặt khác, môn BDNC yêu cầu sinh viên được tiếp xúc với nhiều chủ đề hơn, bao gồm
văn hóa, môi trường, giáo dục, y tế, lịch sử, kinh tế, quan hệ quốc tế, hệ thống chính
trị, v.v. Ngoài ra, trong môn học này, sinh viên phải đối mặt với các vấn đề về ngữ
pháp và biên dịch như tính tương đương văn bản, tính tương đương cấp độ câu, đảo
ngữ, và câu điều kiện, cũng như xử lý các câu lặp, câu phức, trong khi vừa phải học cá
nhân và làm việc nhóm.
Do đó, theo tác giả, so với biên dịch và biên dịch chuyên ngành, môn BDNC
đòi hỏi người học phải nắm vững một lượng kiến thức khổng lồ trong thời gian ngắn,
điều này có thể gây ra nhiều khó khăn cho người học. Hơn nữa, bản chất của biên dịch
là một quá trình phức tạp đòi hỏi kiến thức và sự thành thạo trong nhiều lĩnh vực và
kỹ năng nên người học có thể thấy dịch thuật là một thách thức lớn (Lê, 2017). Người
dịch không thể dịch ngôn ngữ gốc (NNG) sang ngôn ngữ đích (NNĐ) nếu họ thiếu
những năng lực cần thiết để chuyển giao ngôn ngữ. Năng lực chuyển giao bao gồm
các phương pháp và kỹ thuật dịch cần thiết để hoàn thành quá trình dịch thuật một
cách nhanh chóng và hiệu quả, bên cạnh việc chủ động dịch văn bản được tạo bằng
NNG sang NNĐ (Coban, 2015). Hơn nữa, biên dịch đòi hỏi một tập hợp kiến thức và kỹ năng phức tạp liên quan đến biên dịch. (Neubert & Schaffner, 2000) và năng lực
biên dịch bao gồm một số kỹ năng cụ thể như năng lực ngôn ngữ, năng lực văn bản,
kiến thức lĩnh vực chuyên môn, năng lực văn hóa và năng lực chuyển giao. Do đó,
theo quan điểm của Coban (2015), vì bản chất của dịch thuật rất phức tạp nên dịch
thuật không chỉ đơn thuần là tiếp thu hoạt động ngôn ngữ mà còn đòi hỏi những năng
lực khác nữa.
Vì vậy, tác giả quyết định thực hiện nghiên cứu này nhằm tìm hiểu xem sinh
viên năm thứ 4 tại Khoa SPTA- ĐHNN- ĐHQGHN có gặp khó khăn gì khi theo học
môn BDNC hay không. Nghiên cứu này cũng hướng tới mục đích đo lường mức độ
cản trở của những khó khăn đó đến quá trình học tập của các sinh viên. Nghiên cứu
cũng đưa ra các đề xuất nhằm cải thiện việc giảng dạy và học tập biên dịch cho các
sinh viên và trường đại học.
2. Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan
2.1. Công trình nghiên cứu quốc tế
Theo nghiên cứu của Iordan (2021) người dịch dịch tiếng nước ngoài sang
ngôn ngữ mẹ đẻ của họ tốt hơn so với việc dịch ngôn ngữ mẹ đẻ sang ngôn ngữ thứ
hai. Điều này là do một số lý do liên quan đến lợi thế về ngôn ngữ, hình thái và văn
hóa. Đầu tiên, người dịch có lợi thế về nền tảng ngôn ngữ của ngôn ngữ mẹ đẻ của họ
vì họ sở hữu kiến thức từ vựng, hình thái, ngữ nghĩa và cú pháp một cách tự nhiên.
Trong khi đó, để dịch sang ngôn ngữ thứ hai, người dịch phải nghiên cứu kiến thức
học thuật. Ngoài ra, so với một dịch giả dịch sang tiếng nước ngoài, một dịch giả dịch
sang tiếng mẹ đẻ có sự hiểu biết tự nhiên và thực tế hơn về các quy tắc hình thái của
ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Ngoài ra, xét về khía cạnh văn hóa, dịch sang ngôn ngữ mẹ
đẻ có lợi thế hơn so với dịch sang ngôn ngữ thứ hai vì người dịch có kiến thức sâu
rộng giúp họ dịch chính xác các yếu tố văn hóa như thành ngữ, tục ngữ, ẩn dụ, cụm từ,
và những yếu tố khác tương đương trong ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Mặt khác, vì người
dịch không quen với văn hóa của ngôn ngữ thứ hai nên họ có thể không nhận ra hoặc
phát hiện được các khía cạnh văn hóa của ngôn ngữ đó.
Coban (2015) đã nghiên cứu các khả năng và kỹ năng cần thiết trong biên dịch
dựa trên các mô hình biên dịch và lý thuyết chung về nghiên cứu biên dịch. Theo
nghiên cứu, biên dịch là một công việc khó khăn đòi hỏi nhiều hoạt động trí óc như
suy nghĩ, giải quyết vấn đề, trí nhớ, nhận thức, hiểu biết, diễn đạt lại, v.v. Để dịch trôi
chảy, người dịch cần trang bị cho mình những kiến thức và khả năng cần thiết. Ngoài
ra, người dịch cũng phải nhận thức được các khả năng cần thiết vì các nhiệm vụ dịch
thuật khác nhau đòi hỏi những kỹ năng khác nhau. Vì vậy, cơ sở giảng dạy dịch thuật
nên xem xét việc kết hợp các kỹ năng mới vào đào tạo dịch giả và lập kế hoạch cho
chương trình học tập của mình sao cho phù hợp.
Trong khi đó, Nadirah và cộng sự (2019) đã thực hiện một nghiên cứu về khả
năng dịch từ sang tiếng Indonesia của học sinh lớp 1 Pancarijang cũng như những thách thức mà các em gặp phải khi dịch. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp mô tả
định lượng bằng bài kiểm tra đọc, bảng câu hỏi và phỏng vấn trong nghiên cứu. Có
tổng cộng 42 học sinh được chọn để nghiên cứu theo kỹ thuật lấy mẫu ngẫu nhiên. Kết
quả cho thấy mặc dù sinh viên có khả năng dịch tiếng Anh sang tiếng Indonesia tốt
nhưng họ vẫn phải đối mặt với những thách thức với biên dịch. Phần lớn các vấn đề
đều liên quan đến “vấn đề ngôn ngữ”, liên quan đến từ vựng và cấu trúc.
Để phân tích những khó khăn của sinh viên trong việc dịch văn bản kể lại
(recount text) từ tiếng Anh sang Indonesia, Simanjuntak (2020) đã thực hiện nghiên
cứu bằng phương pháp định tính sử dụng nghiên cứu định tính mô tả và số lượng
người tham gia là 10 người. Tác giả sử dụng phương pháp quan sát, phỏng vấn và
kiểm tra dịch thuật để thu thập dữ liệu, sau đó đánh giá để đưa ra các kết luận sau:
Người học có những rào cản về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ khiến họ không thể dịch
chính xác một văn bản kể lại tiếng Anh. Nguyên nhân chính khiến họ gặp khó khăn
khi dịch văn bản kể lại bằng tiếng Anh là do thiếu từ vựng và khó sắp xếp từ sang
tiếng Indonesia.
Arono và Nadrah (2019) thực hiện nghiên cứu với mục tiêu xác định các loại
lỗi dịch thuật, những khó khăn của sinh viên khi dịch văn bản và các yếu tố ảnh hưởng
đến lỗi dịch thuật của sinh viên tại Khoa Tiếng Anh của Viện Nghiên cứu Hồi giáo
Bengkulu. Kỹ thuật định lượng mô tả được sử dụng trong nghiên cứu này và các bài
kiểm tra được sử dụng để xác định các loại lỗi dịch thuật khác nhau, một bảng câu hỏi
được sử dụng để tìm hiểu về những thách thức của sinh viên khi dịch thuật và một
cuộc phỏng vấn được thực hiện để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lỗi dịch thuật
của sinh viên. Kết quả cho thấy khó khăn của sinh viên khi dịch văn bản tiếng Anh là
lỗi dịch elip (translating ellipsis), dịch thành ngữ và ý nghĩa văn bản. Thiếu vốn từ
vựng, gặp khó khăn khi dịch kinh Hồi giáo, các tác phẩm văn học và ngữ pháp là
những thách thức dịch thuật lớn nhất của sinh viên dịch. Thêm vào đó, dấu chấm lửng,
thành ngữ, nền tảng ý nghĩa từ vựng trong nội dung văn bản là những yếu tố ảnh
hưởng tới chất lượng bài dịch của sinh viên.
Không giống như các nghiên cứu trên, Zainudin và Awal (2012) chỉ tập trung
vào phương pháp học tập hợp tác để dạy kỹ năng dịch thuật trong lớp học biên dịch tại
khóa học biên dịch cơ bản tại Trường Nghiên cứu Ngôn ngữ và Ngôn ngữ học, Khoa
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Kebangsaan Malaysia. Với phương pháp
nghiên cứu định lượng và định tính được áp dụng trong nghiên cứu này, có thể kết
luận rằng học tập hợp tác là phù hợp để sử dụng trong lớp biên dịch. Kết quả cho thấy
những người được hỏi thích thảo luận về bài dịch với các nhóm nhỏ hơn (2–3) hơn là
các nhóm lớn (3–4). Tuy nhiên, họ cũng ý thức được lợi ích của làm việc nhóm. Thứ
ba, sinh viên nhận thấy làm việc nhóm giúp ích cho việc thảo luận và trao đổi ý tưởng.
Các tác giả cũng phát hiện ra rằng các bài làm việc nhóm giúp thúc đẩy cuộc trò
chuyện và chia sẻ ý tưởng. Học sinh có thể đọc văn bản nguồn rõ ràng hơn và có khả
năng sửa lỗi cho bạn bè nhờ việc học theo nhóm. Cuối cùng, khi lớp học trở nên quá ồn ào và một số bạn trong lớp không tham gia vào cuộc thảo luận thì sinh viên không
coi trọng hoạt động nhóm.
2.2. Công trình nghiên cứu tại Việt Nam
Lê (2017) đã thực hiện nghiên cứu cơ sở lý luận về đào tạo và đào tạo biên phiên dịch
chuyên nghiệp tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra những thách thức mà việc đào tạo
biên phiên dịch chuyên nghiệp ở Việt Nam đang phải đối mặt. Thứ nhất, chương trình
đào tạo dịch thuật ở Việt Nam còn thiếu bài bản, thống nhất và chưa coi trọng lý
thuyết chung của thế giới. Tiếp theo, những giáo viên đào tạo biên, phiên dịch không
có đủ kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Sau đó là vấn đề về chương trình
giảng dạy. Do các trường chuyển giao và áp dụng gần như toàn bộ chương trình giảng
dạy hệ sư phạm và phương pháp đào tạo từ hệ đào tạo sư phạm ngoại ngữ sang hệ đào
tạo biên phiên dịch nên việc đào tạo không thể phù hợp với cả giáo viên và học sinh.
Cuối cùng là nhận thức của các nhà quản lý đào tạo về hệ thống đào tạo biên phiên
dịch. Các khóa đào tạo biên phiên dịch thường được coi là định hướng đào tạo ở hầu
hết các cơ sở đào tạo. Trong chương trình giảng dạy của các trường đại học này, lý
thuyết và thực hành dịch thuật chỉ là một trong những học phần của trường nên ít
được quan tâm đầu tư. Nhận thức này đã dẫn tới những quyết định, chính sách về
phương pháp đào tạo biên phiên dịch gần như giống hệt với phương pháp đào tạo của
hệ thống đào tạo giáo viên ngoại ngữ. Hậu quả là sản phẩm đầu ra của chương trình
không đáp ứng được nhu cầu, mong đợi của xã hội.
Hoàng (2020), đã thực hiện một nghiên cứu với đề tài tương tự như Lê (2017)
về thực trạng nghề dịch thuật ở Việt Nam với dữ liệu được thu thập từ sinh viên tốt
nghiệp sáu chương trình đào tạo biên dịch đại học tại Việt Nam. Nghiên cứu cho thấy
các chương trình đào tạo còn thiếu đa dạng về loại hình và cấp độ. Cũng không có sự
phân loại rõ ràng giữa tài liệu dành cho hệ sư phạm và biên dịch/phiên dịch. Hơn nữa,
chương trình dạy biên-phiên dịch không chuẩn bị cho hầu hết sinh viên tốt nghiệp
bước vào thị trường lao động mà chỉ mang lại cho họ những nhận thức tích cực về
chương trình đào tạo. Ngoài ra, sự thiếu quản lý của thị trường là một trong những
nguyên nhân khiến phần lớn các dịch giả tự do coi nghề dịch như một nguồn thu nhập
phụ và họ phải tìm kiếm những nghề ổn định hơn, chẳng hạn như dạy ngoại ngữ.
Mặt khác, nghiên cứu tại Đại học Vinh nhằm tìm hiểu những thách thức gặp
phải khi học môn biên dịch được thực hiện bởi Lê và Trần (2022). Các tác giả đã sử
dụng các công cụ nghiên cứu như bản dịch của sinh viên trong lớp và phỏng vấn
nhóm để xác định các yếu tố hạn chế khả năng thực hiện dịch thuật một cách hiệu quả
của sinh viên. Các phát hiện cho thấy ngữ nghĩa là vấn đề lớn nhất. Từ đa nghĩa, từ
đồng nghĩa, từ trái nghĩa là ba vấn đề từ vựng trọng tâm có ảnh hưởng tới lỗi dịch của
học sinh theo cả hai hướng Việt-Anh và Việt-Anh. Ngữ pháp đứng ở vị trí thứ hai, bao
gồm việc không thể phân biệt được thì của câu và xác định loại từ. Theo kết quả
phỏng vấn, người dịch thường chỉ dựa vào từ điển Anh – Việt để tra cứu nghĩa của từ
và thường không sử dụng ngữ cảnh để tra từ, dẫn đến dịch sai. Thứ ba, khả năng tiếp thu hạn chế của người học về văn hóa, chuyên ngành, nền tảng và mối quan tâm thực
tiễn là nguyên nhân khiến khả năng dịch thuật của họ còn hạn chế.
Tương tự như vậy, nghiên cứu của Phạm và cộng sự (2021) đã nghiên cứu
những thách thức của biên dịch và các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình biên dịch từ
góc nhìn của sinh viên ngoại ngữ tại một trường đại học tư. Nghiên cứu cũng nhằm
tìm ra lý do tại sao sinh viên ngoại ngữ gặp khó khăn trong quá trình biên dịch và tìm
ra các cách khác nhau mà sinh viên chuyên ngành tiếng Anh dịch văn bản sang ngôn
ngữ đầu tiên của họ. Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả kết hợp cả
phương pháp định lượng và định tính với sự tham gia của 125 sinh viên chuyên ngành
tiếng Anh đã hoàn thành môn học Biên dịch. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các yếu
tố từ vựng khó dịch nhất là các từ vựng như thuật ngữ chuyên ngành; thành ngữ, tục
ngữ; ẩn dụ và hoán dụ; và từ cổ. Kiến thức có sẵn, cụ thể là kiến thức xã hội, kiến thức
khoa học và kiến thức liên ngành là yếu tố thách thức thứ hai. Yếu tố liên quan đến
văn hóa đứng ở vị trí thứ ba. Hơn nữa, ngữ pháp vẫn còn rắc rối mặc dù hầu hết học
sinh đều cảm thấy tự tin vào ngữ pháp. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc phụ thuộc
quá nhiều vào các công cụ dịch thuật là nguyên nhân chính gây khó khăn cho sinh
viên khi dịch.
Nguyễn và Phan (2023) đã thực hiện nghiên cứu nhằm xác định những thách
thức thực tế mà sinh viên Đại học Tây Đô gặp phải trong việc biên dịch Việt–Anh và
đưa ra một số lời khuyên nhằm nâng cao khả năng biên dịch. Nghiên cứu được thực
hiện dựa trên bảng câu hỏi và bài kiểm tra dịch thuật để thu thập thông tin với sự tham
gia của 100 sinh viên chuyên ngành Tiếng Anh tại Trường Đại học Tây Đô. Nhóm tác
giả thấy rằng nguyên nhân chính là do vấn đề từ vựng bao gồm thiếu từ vựng, lựa
chọn từ và chính tả từ; các vấn đề về ngữ pháp bao gồm thì, mệnh đề, hình thức câu và
trật tự từ; các vấn đề về văn hóa trong dịch thuật bao gồm thiếu kiến thức văn hóa,
thành ngữ, cách diễn đạt cố định, không thể dịch được về văn hóa.
Qua nghiên cứu các cơ sở lý luận và tìm hiểu các nghiên cứu liên quan đến đề
tài cả trong nước và quốc tế, tác giả xác định được những hạn chế chính trong nghiên
cứu của Khairunnisa (2020), Arono và Nadrah (2019), Lê và Trần (2022), Phạm và
các cộng sự (2021), Nguyễn và Phan (2023) là họ chỉ đề xuất các yếu tố ngôn ngữ và
yếu tố kiến thức ảnh hưởng đến quá trình biên dịch của sinh viên mà chưa đánh giá
mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến việc học môn biên dịch của sinh viên. Mặt
khác, Intan và Norsimah (2011) chỉ tập trung vào phương pháp học tập trong biên
dịch. Tuy nhiên, theo Lê (2017), Coban (2015), Hoàng (2020) biên dịch là một quá
trình phức tạp, không chỉ cần tổng hợp các năng lực, kỹ năng mà các yếu tố như
chương trình giảng dạy, môi trường học tập, chất lượng giảng viên cũng có thể ảnh
hưởng tiêu cực đến việc học môn biên dịch. Vì vậy, tác giả nhận thấy cần phải tiến
hành nghiên cứu về những thách thức mà sinh viên năm thứ 4 tại FELTE, ULIS-VNU
khi học môn BDNC nhằm tìm hiểu xem liệu sinh viên có gặp phải những vấn đề nêu
trên khi học môn BDNC hay không và để cung cấp nền tảng cho những nghiên cứu tiếp theo về những khó khăn khi học các môn liên quan đến biên dịch.
3. Ý nghĩa khoa học
Thứ nhất, kết quả của bài nghiên cứu này được kỳ vọng sẽ cung cấp thông tin về
những khó khăn của sinh viên khi học môn BDNC. Ngoài ra, bài nghiên cứu có thể hỗ
trợ cho các nghiên cứu trong tương lai về các vấn đề liên quan đến những khó khăn
khi học các môn liên quan đến biên dịch và đóng góp cho các bài nghiên cứu trước đó
bằng cách tái khẳng định các kết quả nghiên cứu,bổ sung những khoảng trống trong
các bài nghiên cứu trước đó và phát triển toàn diện hơn về sự ảnh hưởng của các yếu
tố gây nên những khó khăn của sinh viên khi học tập môn BDNC.