Nghiên cứu về yếu tố Hán Việt trong thể loại văn bản Y khoa (trên cơ sở khảo sát văn bản Thực hành cấp cứu và điều trị bệnh nội khoa)

Trang chủ / Ngân hàng ý tưởng

Tổng quan

Nhu cầu thực tiễn
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng hữu nghị, núi sông liền kề, có nền văn hóa tương đồng, có mối quan hệ bền chặt, lâu dài và cùng có lợi. Từ thời xa xưa, hai nước đã có mối quan hệ chặt chẽ về nhiều mặt như lịch sử, văn hóa, tư tưởng, nhân văn, chính trị… Đặc biệt là trong thời kỳ Bắc thuộc, khi Việt Nam nằm dưới sự cai trị của Trung Quốc, người Hán đã thực hiện chính sách đồng hóa đối với người Việt và truyền bá một lượng lớn văn hóa Trung Quốc vào Việt Nam. Người Việt trong thời kỳ này đã sử dụng chữ Hán trong một thời gian dài và sử dụng tiếng Hán làm ngôn ngữ chính thức, bao gồm cả trong các kỳ thi triều đình, tác phẩm văn học, văn kiện chính phủ, v.v. Sau một thời gian dài giao lưu văn hóa, tiếng Việt chịu ảnh hưởng sâu sắc của tiếng Trung. Nhiều từ tiếng Trung cổ được du nhập vào tiếng Việt. Những từ được du nhập từ Trung Quốc này chủ yếu theo cách phát âm của tiếng Việt, nhưng phần lớn vẫn giữ nguyên cách phát âm của tiếng Trung cổ, đây được gọi là từ Hán Việt. Từ Hán Việt chiếm tỷ lệ khá lớn trong vốn từ vựng tiếng Việt. Năm 1912, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Pháp Henri Maspero đã nêu trong “Etudes sur la phonetique historique de la langue Annamite. Les initiales” rằng số lượng từ Hán Việt chiếm 60% vốn từ vựng tiếng Việt; trong đó, tỷ lệ từ Hán Việt trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế thậm chí còn cao hơn, chiếm khoảng 70%-80%; nhiều học giả Việt Nam cho rằng từ Hán Việt chiếm hơn 60% vốn từ vựng tiếng Việt, điều này cho thấy từ Hán Việt có vị trí vô cùng quan trọng trong kho từ vựng tiếng Việt. Từ Hán Việt giúp làm phong phú thêm vốn từ vựng tiếng Việt và bổ sung những khoảng trống về từ mà trong tiếng Việt không có. Tất nhiên, cũng có một số từ có thể diễn đạt bằng cả từ Hán Việt và từ thuần Việt, chẳng hạn như “giang sơn” và “sông núi”, “vĩ đại” và “to lớn” “nhi đồng” và “trẻ em”, “phi cơ” và “máy bay”,… Tuy nhiên, so với từ thuần Việt, từ Hán Việt mang tính trang trọng hơn, ý nghĩa biểu đạt cũng tao nhã và uyển chuyển hơn. Do đó, từ Hán Việt thường được dùng trong những dịp trang trọng và thường xuất hiện trong các tác phẩm văn học, văn bản chính trị. Không chỉ vậy, từ Hán Việt còn được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như giáo dục, khoa học công nghệ, y học, luật pháp và các lĩnh vực khác. Do đó, nhiều học giả đã tiến hành nghiên cứu thống kê về một số lĩnh vực cụ thể; mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về từ Hán Việt, nhưng phần lớn tập trung ở các lĩnh vực văn học, chính trị, kiến trúc,… Lĩnh vực y học chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của các nhà nghiên cứu, và cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào về từ Hán Việt trong lĩnh vực y học. Trên cơ sở trên, tác giả đã chọn văn bản “Thực hành cấp cứu và điều trị bệnh nội khoa” (2006) làm ngữ liệu, đồng thời tiến hành nghiên cứu, thống kê, phân loại các từ ngữ Hán Việt và thuật ngữ y khoa trong đó, nhằm lấp đầy khoảng trống trong lĩnh vực nghiên cứu từ ngữ Hán Việt trong nước, đóng góp vào việc nghiên cứu từ ngữ Hán Việt và từ vựng tiếng Việt, làm phong phú thêm hệ thống lý luận của ngôn ngữ học.

Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan
Tình hình nghiên cứu trong nước: Nguyễn Như Ý chỉ ra trong Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học (1996) rằng “từ Hán Việt chiếm khoảng 60%”. Trong cuốn “Tiếng Việt văn Việt người Việt” (2003) nhà Ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo cũng cho rằng “70% vốn từ vựng tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán”. Tuy nhiên, số liệu thống kê của các học giả nêu trên về số lượng từ mượn tiếng Hán trong tiếng Việt chỉ dựa trên phỏng đoán chủ quan của cá nhân, không tiến hành thống kê nghiên cứu nên có thể thiếu tính khách quan. Trên thực tế, tỷ lệ từ Hán Việt trong vốn từ vựng tiếng Việt không cao đến vậy. Trong cuốn sách “Từ ngữ Hán Việt: Tiếp nhận và sáng tạo” xuất bản năm 2018 của TS Phạm Hùng Việt, đối tượng nghiên cứu là “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê biên soạn và khảo sát các từ mượn tiếng Việt trong đó. Kết quả cho thấy trong số 45.850 mục từ trong từ điển, có 14.933 mục từ là từ Hán Việt, chỉ chiếm khoảng 32,57%. Luận văn Thạc sĩ “Từ Hán Việt trong các văn bản chính luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh” của Vũ Đình Tuấn (2014) lấy 25 văn bản chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm đối tượng nghiên cứu và khảo sát các từ Hán Việt trong đó. Kết quả cho thấy từ Hán Việt chỉ chiếm 28,9%. “Nghiên cứu thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt” (2016) của Nguyễn Tiến Dũng cho thấy nguồn gốc và đơn vị cấu trúc của thuật ngữ tiếng Việt bao gồm: từ thuần Việt, từ mượn Hán Việt và từ mượn Ấn Âu. Trong đó, các từ ngữ thuần Việt chiếm phần lớn (81,6%), còn các từ ngữ mượn Hán Việt và từ ngữ mượn Ấn Âu chỉ chiếm một phần nhỏ. Luận án tiến sĩ “Nghiên cứu thuật ngữ tin tức tiếng Việt” (2014) của Quách Thị Gấm chỉ ra rằng nguồn gốc và đơn vị cấu trúc của thuật ngữ tin tức tiếng Việt bao gồm: thuần Việt, Hán Việt và Ấn Âu, trong đó loại hình thuật ngữ gồm các từ Hán Việt chiếm tỷ lệ lớn nhất là 67,7%, trong khi thuần Việt và Ấn Âu lần lượt chiếm 25,3% và 7%. Trịnh Thị Thu Hiền chỉ ra trong “Đặc điểm thuật ngữ thương mại Việt Nam” rằng trong số 13.154 thuật ngữ thương mại, thuật ngữ kết hợp Hán Việt và thuần Việt chiếm tỷ lệ lớn nhất, lên tới 98,7%. Có 589 thuật ngữ Hán Việt, chiếm 5,4%, đứng thứ hai. Ngoài ra, trong số 334 thuật ngữ chính trị – xã hội trong Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, thuật ngữ Hán Việt chiếm số lượng lớn nhất, chiếm khoảng 85,81% (284/334); trong số 4.252 thuật ngữ thương mại tiếng Việt, thuật ngữ Hán Việt chiếm 46,73% (1987/4.252), thuật ngữ thuần Việt chỉ chiếm 8,3%.

Tình hình nghiên cứu ngoài nước: Nghiên cứu mang tên “汉越语研究” của nhà ngôn ngữ học Trung Quốc Wang Li đã đi sâu nghiên cứu nguồn gốc, sự phát triển và đặc điểm của từ Hán Việt, là một công trình kinh điển trong nghiên cứu từ Hán Việt. Theo diễn biến lịch sử, ông chia từ Hán-Việt thành ba loại: tiếng Hán Việt cổ, tiếng Hán Việt và tiếng Hán ngữ Việt hoá; ông còn khẳng định rằng tiếng Hán Việt không phải là một nhánh xa xôi của tiếng Hán. “略论双音节汉越词与汉语双音节词的异同” (2003) của Shu Yali đã tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các từ Hán Việt hai âm tiết và chữ Hán tương ứng, chủ yếu thể hiện ở sự tăng giảm các mục nghĩa và sự mở rộng và thu hẹp nghĩa của từ; “分析汉越词异同与语言教学” (2008) của Li Xuening cũng rút ra những kết quả tương tự. Ngoài ra, bà cũng chia các đặc điểm cấu tạo từ của từ Hán và tiếng Việt thành loại vay mượn đầy đủ, loại điều chỉnh, loại hình vị vay mượn và loại kết hợp. Bài nghiên cứu “浅析越南语双音节越创汉越词的形成原因及构词特点” (2015) của Zheng Qingqing đã tiến hành nghiên cứu sâu về từ Hán Việt hai âm tiết và tìm ra đặc điểm cấu tạo từ của chúng; Năm 1912, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Pháp Henri Maspero đã đưa ra ý kiến trong tác phẩm “Etudes sur la phonetique historique de la langue Annamite. Les initiales” rằng các từ có nguồn gốc từ tiếng Hán chiếm tới 60% tiếng Việt. Luận án tiến sĩ “Nghiên cứu đặc điểm từ Hán Việt hai âm tiết” của Luo Wenqing (2010) đã lấy “Từ điển tiếng Việt” làm đối tượng nghiên cứu để thống kê từ Hán Việt hai âm tiết. Kết quả cho thấy trong số 39.924 mục từ, có 10.900 mục từ là từ Hán Việt hai âm tiết, chiếm 27,3%; trong đó, số từ Hán Việt có nguồn gốc từ tiếng Trung là 8.833, số từ Hán Việt do người Việt tự tạo là 2.067. Luận án tiến sĩ của Qi Guangmiu lấy Từ điển tiếng Việt (2006) do Hoàng Phê biên soạn làm đối tượng nghiên cứu và khảo sát các từ mượn tiếng Việt trong đó. Kết quả cho thấy trong số 32.924 mục từ trong từ điển, có 12.910 mục từ là từ Hán Việt, chiếm khoảng 39,2%; trong đó, số từ Hán Việt đơn âm tiết là 1.258, chỉ chiếm 9,7% và số từ Hán Việt song âm tiết là 11.652, chiếm 90,3%. Ngoài ra, nhiều học giả Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu về từ Hán-Việt, bao gồm “语言的亲情——越南语汉源成分探析” (2013) của Luo Qihua, “汉越语关系词声母系统研究” (2004) của Wei Shuguan, “当代越南语汉字词汇使用现状研究——与汉语比较” (2018) của Luo Wenqing và “越南汉籍与汉字域外传播研究” (2022) của He Huazhen. Có thể thấy, các công trình nghiên cứu về từ Hán Việt ở cả trong nước lẫn nước ngoài đều chiếm số lượng rất lớn, nghiên cứu về tỷ lệ từ Hán Việt và nghiên cứu về thuật ngữ ở các lĩnh vực cũng vô cùng đa dạng. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu tập trung vào việc thống kê các thuật ngữ trong các lĩnh vực cụ thể hơn là thống kê toàn bộ tất cả các từ Hán Việt. Ngoài ra, nghiên cứu trong lĩnh vực y học vẫn còn tương đối ít ỏi. Cho đến nay, chưa có nghiên cứu thống kê về từ ngữ, thuật ngữ Hán-Việt trong các văn bản y học.

Ý nghĩa khoa học

  • Đặt nền móng cho các nghiên cứu sâu hơn về yếu tố Hán Việt trong lĩnh vực y học.
  • Nghiên cứu giúp hệ thống hóa và phân loại các thuật ngữ y học theo tiêu chí thành phần cấu tạo nên thuật ngữ, từ đó làm rõ mức độ tham gia của yếu tố Hán Việt.