Nghiên cứu về ảnh hưởng tích cực của “ Phương pháp của nghe chép chính tả” tới kỹ năng nghe của sinh viên năm nhất khoa NN&VH Trung Quốc và đề xuất giải pháp xây dựng kho ngữ liệu

Trang chủ / Ngân hàng ý tưởng

Tổng quan
Nhu cầu thực tiễn
Với vị thế ngày càng được khẳng định của Trung Quốc trên trường quốc tế và mối quan hệ hợp tác sâu rộng giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian gần đây, tiếng Trung đã trở thành một trong hai ngôn ngữ được yêu thích hàng đầu. Số lượng người học tiếng Trung và quan tâm đến văn hóa Trung Hoa ngày càng tăng.
Để thành thạo tiếng Trung, học sinh cần phát triển đủ bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc và viết. Trong đó, kỹ năng nghe được xem là quan trọng nhất, bởi mục tiêu cuối cùng của việc học ngôn ngữ là giao tiếp thành công. Để giao tiếp hiệu quả, trước hết cần hiểu được người đối diện đang nói gì. Do đó, việc xây dựng nền tảng kỹ năng nghe vững chắc từ giai đoạn sơ cấp là điều thiết yếu. Giai đoạn dạy nghe sơ cấp không chỉ là bước khởi đầu trong quá trình học tiếng Trung mà còn quyết định đến khả năng nghe hiểu nâng cao của người học. Kết quả học tập ở giai đoạn này ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình học sau này.
Tuy nhiên, dù học sinh được học qua các bài giảng có hướng dẫn chi tiết hay tự học từ tài liệu bổ trợ, họ vẫn gặp nhiều khó khăn và sai sót về kiến thức và kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng nghe. Đây là một trong những kỹ năng nền tảng giúp sinh viên làm chủ ngôn ngữ hiệu quả, nhưng thực tế cho thấy nhiều sinh viên năm nhất khoa tiếng Trung vẫn gặp khó khăn trong việc nghe hiểu một cách chính xác và nhanh chóng. Các thách thức bao gồm sự khác biệt về văn hóa, giọng điệu, vốn từ vựng, độ dài hội thoại và sự thiếu hứng thú trong việc nghe hiểu,…. Do đó, việc tìm ra phương pháp học phù hợp sinh viên cải thiện kỹ năng nghe hiểu tiếng Trung và giúp họ nắm vững nội dung bài học là một vấn đề đáng được quan tâm.
Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi em xin đề xuất phương pháp nghe chép chính tả như một công cụ hỗ trợ hiệu quả trong việc nâng cao khả năng nghe của sinh viên. Phương pháp này đã được nhiều nghiên cứu trên thế giới áp dụng và chứng minh có khả năng cải thiện kỹ năng nghe hiểu của người học ngôn ngữ. Dù phương pháp này từ lâu đã được sử dụng trong kiểm tra năng lực ngôn ngữ, lợi ích của nó đối với việc giảng dạy và học tập vẫn chưa được khai thác đầy đủ. Thêm vào đó, ngày nay, khi xuất hiện nhiều phương pháp học tập hiện đại hơn, phương pháp nghe chép chính tả nhận được những ý kiến trái chiều. Mặt khác, nghiên cứu về tác động của phương pháp này đối với kỹ năng nghe hiểu của người học tiếng Trung tại Việt Nam và trên thế giới vẫn còn hạn chế. Phần lớn các học giả chỉ tập trung vào khía cạnh ghi nhớ Hán tự của phương pháp này thay vì nâng cao khả năng nghe.

Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan
a. Các nghiên cứu trên thế giới:
Tác động của phương pháp Mối quan hệ về nghe chép chính tả đối với việc phát triển tổng hợp các kỹ năng nghe- nói-đọc- viết, trong đó có kỹ năng nghe đã thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng phương pháp nghe chép chính tả là một phương pháp hiệu quả trong việc cải thiện khả năng nghe ngoại ngữ của người học.
Trong bài báo “Dictation as a Device for Testing Foreign-Language Proficiency” (1971), Oller đã đưa ra mô hình nghe chép chính tả và khẳng định sự hiệu quả của nó trong học sinh. Trong cuốn Language Test at School xuất bản năm 1979 nghiên cứu về các dạng bài kiểm tra và đánh giá khả năng ngôn ngữ, Oller đề xuất nghe chép chính tả “như là thước đo đơn lẻ tốt nhất về tổng thể các kỹ năng ngôn ngữ tiếng Anh đang được kiểm tra”. Bài thi bao gồm 5 phần: từ vựng, viết đoạn văn, nghe phân biệt âm vị, chọn câu ngữ pháp đúng (dạng trắc nghiệm), và nghe chép chính tả. Sau khi thu thập dữ liệu từ 100 sinh viên được chọn ngẫu nhiên trong bài Kiểm tra phân loại tiếng Anh của Đại học California, Oller đã chứng minh nghe chép chính tả là công cụ đánh giá kỹ năng nghe để xây dựng chương trình giảng dạy cho giáo viên. Bằng kỹ thuật tương quan đa biến, ông đã phân tích mối tương quan giữa điểm số của từng phần và tổng điểm bài kiểm tra để xác định mức độ liên kết và giá trị dự đoán của từng phần. Kết quả cho thấy bài nghe chép chính tả có mối tương quan cao nhất với các phần khác. Nói cách khác, phần đọc chính tả là công cụ tốt nhất để bao hàm đánh giá các phần còn lại. Từ đó, ông cũng cho rằng viết chính tả là một phương pháp tốt, ưu việt hơn việc thực hiện luyện tập hiểu ngôn ngữ qua các dạng câu hỏi trắc nghiệm. Đồng thời, Oller cũng đưa ra lý thuyết tổng quan và phân loại các dạng của phương pháp này. Hai nghiên cứu này là nền tảng, cơ sở nghiên cứu mà hầu hết những bài nghiên cứu sau này về nghe chép chính tả đều dựa vào.
Năm 2001, Marilyn C. Fisher trong nghiên cứu “Dictation: What and how to learn from it” đã đánh giá lại vai trò của nghe chép chính tả trong việc giảng dạy tiếng Anh do trong những năm gần đây. Bà cho rằng phương pháp này “cung cấp phương tiện phản hồi chính xác, ngay lập tức và đơn giản” cho học sinh về các điểm mạnh và điểm yếu của mình khi các lỗi được kiểm tra cẩn thận, mang lại cho học sinh sự trực tiếp hơn, gần gũi hơn với tài liệu.
Trong nghiên cứu “论听写训练对提高听力水平的作用” năm 2003, Wang Haiyan nhấn mạnh vai trò của nghe chép chính tả trong việc cải thiện kỹ năng nghe tiếng Anh. “Khi nghe và viết đồng thời, não bộ tạo liên kết giữa nghe và nhìn, giúp hình thành kiến thức tiếng Anh tích hợp về âm thanh và hình dạng. Qua lặp lại nhiều lần, học sinh có thể liên kết âm thanh, ngữ điệu với từ và câu viết, đồng thời hình dung cách sắp xếp câu. Điều này không chỉ tăng cường khả năng nghe hiểu mà còn tạo phản xạ tự nhiên với tiếng Anh.”
Mohammad Rahimi vào năm (2008) với “Using Dictation to Improve Language Proficiency” đã nghiên cứu tác động của viết chính tả đến trình độ của người học và kết quả cho thấy viết chính tả giúp củng cố trình độ ngôn ngữ. Đối tượng nghiên cứu bao gồm 65 sinh viên chuyên ngành tiếng Anh đang theo học lớp Hội thoại. Họ tham gia 2 lớp riêng biệt: một lớp được coi là nhóm thực nghiệm (EG), còn lại là nhóm đối chứng (CG). Công cụ chính của nghiên cứu là Bài kiểm tra xếp lớp của Đại học Shiraz, được sử dụng làm cả bài kiểm tra trước và sau để đánh giá trình độ ngôn ngữ chung của các đối tượng. EG đã nghe chính tả tổng 50 lần trong suốt học kỳ – mỗi buổi, một lần nghe chính tả. Mỗi bài tập nghe chính tả mất khoảng 10 phút vào đầu mỗi buổi học, đọc ba lần. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm thực nghiệm đã có một số cải thiện về trình độ ngôn ngữ của họ mà nhóm đối chứng không cho thấy sự cải thiện nào trong các phần khác của bài kiểm tra ngoại trừ phần kiểm tra từ vựng.
Nhìn chung, hầu hết trong giới nghiên cứu học thuật trên thế giới đã có nhiều bài báo, bài nghiên cứu nói về ảnh hưởng của phương pháp nghe chép chính tả này trong việc học các ngoại ngữ Latinh. Tuy nhiên, qua việc sưu tầm và nghiên cứu các những tài liệu đó, nhóm tác giả nhận thấy chưa có bài nghiên cứu nào làm rõ ảnh hưởng của phương pháp này trên phương diện cải thiện các kỹ năng nghe Tiếng Trung. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào tác dụng đối với ghi nhớ cách viết Hán tự hay kĩ năng viết nhiều hơn. Tuy nhiên, vẫn chưa làm rõ chi tiết những ảnh hưởng của phương pháp này tới việc cải thiện các yếu tố của kỹ năng nói Tiếng Trung như thế nào.

b. Các nghiên cứu trong nước
Giới nghiên cứu học thuật trong nước cũng có rất nhiều tài liệu đã chú ý nhiều về phương pháp này.
Nghiên cứu “Hiệu quả của hoạt động nghe chép chính tả trong việc cải thiện khả năng nghe cho sinh viên năm nhất, khoa Sư phạm tiếng Anh, Trường Đại học Ngoại ngữ” của Võ Nghiêm Thị Dịu (2016) đánh giá hiệu quả của phương pháp nghe chép chính tả đối với kỹ năng nghe hiểu của sinh viên. 30 sinh viên năm nhất thuộc khoa Sư phạm tiếng Anh, được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm, thực hiện trong 30 buổi học. Trong đó, nhóm thực nghiệm được nghe xen thêm nghe chép chính tả ngoài bài nghe truyền thống trong 15 buổi. Kết quả cho thấy nhóm thực nghiệm cải thiện đáng kể điểm số so với nhóm đối chứng, khẳng định hiệu quả của phương pháp này trong việc nâng cao kỹ năng nghe.
Trong nghiên cứu năm 2017 “Sử dụng phương pháp nghe chính tả để hỗ trợ nâng cao kỹ năng nghe tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất, Trường Đại học Kinh Tế, Đại học Đà Nẵng” được đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ, giảng viên Võ Nguyễn Thùy Trang đã thực hiện khảo sát với 36 sinh viên năm nhất tại Trường Đại học Kinh tế. Bằng cách sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, bảng câu hỏi, phỏng vấn và thực nghiệm, tác giả đã đối sánh kết quả trước và sau khi áp dụng phương pháp nghe chính tả trong thời gian 3 tháng. Sinh viên tham gia thực nghiệm phải thực hành liên tục các bài tập nghe chính tả, các bài nghe có độ dài từ 100–150 từ, được thực hiện tại lớp hoặc tự luyện tập ở nhà. Kết quả cho thấy kỹ năng nghe của sinh viên có sự tiến bộ rõ rệt, qua đó thấy rõ hiệu quả đạt được khi sinh viên sử dụng phương pháp nghe chính tả.
Nghiên cứu của Võ Lê Thị Thanh Nga và Nguyễn Thị Ánh Tuyết (2023), đăng trên Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 37, tháng 3-2023, tập trung vào việc cải thiện kỹ năng nghe thông qua bài tập chính tả cho sinh viên năm hai tại Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên (UTEHY). Mục tiêu của nghiên cứu là khảo sát thái độ, lợi ích, và khó khăn của sinh viên khi học nghe qua chính tả, đồng thời đưa ra các đề xuất giúp áp dụng hiệu quả phương pháp này. Kết quả cho thấy sinh viên có thái độ tích cực đối với bài tập chính tả. Họ nhận thấy nhiều lợi ích như cải thiện kỹ năng nghe, phát âm, vốn từ vựng và tư duy logic, dù gặp một số khó khăn như tốn thời gian. Tác giả cũng đề xuất các kỹ thuật để giáo viên và sinh viên áp dụng chính tả hiệu quả hơn.
So với các tài liệu của giới học thuật trên thế giới, các bài nghiên cứu trong nước về tác dụng của phương pháp nghe chép chính tả đối với việc học tiếng Anh rất nhiều. Tuy nhiên, các nghiên cứu đối với việc cải thiện kỹ năng nghe, nhất là đối với tiếng Trung, vô cùng khan hiếm. Do đó, nghiên cứu này sẽ bổ sung thêm vào kho tàng lý thuyết và thực tiễn.

Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu này không chỉ đóng góp vào lý luận giảng dạy ngoại ngữ mà còn cung cấp những thông tin thực tiễn quan trọng trong việc cải thiện kỹ năng nghe của sinh viên năm nhất Khoa NN và VH Trung Quốc. Qua đó, giúp các giảng viên và nhà trường có thể điều chỉnh phương pháp giảng dạy phù hợp hơn.