Nghiên cứu nghi lễ cúng rừng của dân tộc Hà Nhì và công tác bảo tồn văn hóa dân tộc thiểu số của huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai trong thời kỳ mới

Trang chủ / Ngân hàng ý tưởng

Tổng quan

Nhu cầu thực tiễn
Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là yếu tố quyết định sự tồn vong của một đất nước. Văn hóa có vai trò quan trọng tương đương với kinh tế và chính trị. Mọi sự đều bắt nguồn từ văn hóa. Chỉ cần quan sát từ những yếu tố nhỏ trong cuộc sống thường ngày như cách ăn nói, cách hành xử của một con người cũng có thể phản ánh được họ đang được dạy dỗ trong nền văn hóa như thế nào. Trong thời đại của sự toàn cầu hóa và hội nhập, chúng ta buộc phải thừa nhận rằng nhiều nét đẹp trong văn hóa của các dân tộc trên thế giới đang ngày càng bị mai một hoặc thậm chí là biến mất không còn dấu vết. Điều này đặt ra một bài toán khó đối với bộ máy chính quyền các nước: Làm thế nào để có thể vừa phát triển kinh tế, nhưng song hành với đó vẫn bảo vệ được trọn vẹn những giá trị tốt đẹp của dân tộc?

Việt Nam có 54 dân tộc anh em, tất cả đều đang cùng sinh sống hòa hợp với nhau trên mảnh đất hình chữ S. Nhờ vị trí địa lý thuận lợi và trải qua tiến trình của lịch sử, cái đẹp của văn hóa nước ta không chỉ đến từ những nét đẹp cổ truyền sẵn có, mà còn được dung hòa từ nền văn hóa của nhiều nền văn minh lớn trên thế giới như Trung Quốc, Chăm Pa, cho đến cả các nước phương Tây như Pháp. Cấu trúc đặc biệt về địa hình với 3/4 là đồi núi, 1/4 là đồng bằng cùng với đường bờ biển trải dài đến gần 3600km cũng tạo nên những vùng văn hóa đặc sắc khác nhau. Trong đó, khu vực miền núi là nơi cư trú của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc sẽ có những phong tục tập quán riêng, thậm chí còn có thể nảy sinh sự khác biệt khi họ sinh sống ở các vùng địa hình khác nhau. Đó chính là cái hay, cái phong phú của văn hóa.

Lào Cai là một tỉnh miền núi phía Bắc, tụ họp nhiều đồng bào dân tộc thiểu số đang học tập và sinh hoạt trên địa bàn. Một trong số đó là dân tộc Hà Nhì, chủ yếu sinh sống tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Người Hà Nhì có rất nhiều nét đặc sắc trong văn hóa. Họ tổ chức rất nhiều lễ hội xuyên suốt cả năm. “Nghi lễ cúng rừng” là một trong số những nghi lễ tiêu biểu thể hiện rõ cái độc lạ trong văn hóa của người Hà Nhì. Nghi lễ thể hiện sự tôn kính của người dân đối với thứ mà họ luôn gắn bó trong suốt các hoạt động sinh hoạt, sản xuất thường ngày – cánh rừng. Tuy nhiên, như đã đề cập ở phần trên, việc đưa ra các chính sách để “hòa nhập mà không hòa tan”, phát triển nhưng vẫn phải giữ lại được những bản sắc đẹp của dân tộc đối với một tỉnh biên giới như Lào Cai không hề dễ dàng. Bát Xát là một huyện vùng sâu vùng xa, do vậy, công tác kết nối giữa cán bộ các cấp chính quyền Nhà nước với người dân trên địa bàn huyện tương đối khó khăn, nhất là với các dân tộc thiểu số như dân tộc Hà Nhì. Các chính sách của tỉnh đưa ra vẫn chưa xử lý được triệt để và đi sâu vào cốt lõi của vấn đề. Do vậy, tôi quyết định chọn “Nghiên cứu nghi lễ cúng rừng của dân tộc Hà Nhì và công tác bảo tồn văn hóa dân tộc thiểu số của huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai trong thời kỳ mới” để nghiên cứu.

Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan
Tình hình nghiên cứu trong nước
Trong quá trình khảo cứu tài liệu, tôi nhận thấy rằng có một báo cáo đề cập trực tiếp đến tập tục cúng rừng của người Hà Nhì, đó là bài nghiên cứu “Tri thức bản địa của người Hà Nhì ở Việt Nam với vấn đề bảo vệ rừng” do tác giả Trần Hữu Đức biên soạn. Bài nghiên cứu này giải thích lý do người Hà Nhì coi trọng hình ảnh cánh rừng, đồng thời giới thiệu về các khu rừng cấm, rừng thiêng và các nghi lễ liên quan trong quá trình tiến hành tổ chức nghi lễ cúng rừng. Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến các quy tắc quản lý và chế tài bảo vệ rừng trong cộng đồng người Hà Nhì. Bên cạnh đó, về vấn đề bảo tồn văn hóa của các dân tộc thiểu số trong bối cảnh hiện đại, bài viết “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” của tác giả Trương Minh Dục đã tiến hành phân tích giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số Việt Nam cũng như các chính sách bảo tồn và phát huy những giá trị này. Công trình này cũng chỉ ra những hạn chế trong công tác bảo tồn văn hóa dân tộc thiểu số và đề xuất các giải pháp khắc phục.

Tình hình nghiên cứu quốc tế
Bảo tồn giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số là một vấn đề quan trọng đối với nhiều quốc gia, do đó, trên diễn đàn quốc tế cũng có nhiều tài liệu nghiên cứu về lĩnh vực này. Bài nghiên cứu “Nghiên cứu vấn đề bảo tồn văn hóa dân tộc tại huyện tự trị dân tộc Mãn Y Thông, Trung Quốc—lấy văn hóa dân tộc Mãn làm ví dụ” của tác giả Chu Hoành Tuyên có nhiều điểm tương đồng với đề tài tôi đang nghiên cứu. Tuy nhiên, bài nghiên cứu trên không đi sâu vào việc nghiên cứu và cung cấp thông tin về bản sắc văn hóa của dân tộc Mãn mà chủ yếu thảo luận về các vấn đề bảo tồn văn hóa dân tộc, trong đó chỉ ra những hạn chế trong chính sách bảo tồn văn hóa tại huyện tự trị dân tộc Mãn Y Thông, phân tích nguyên nhân và đề xuất các giải pháp phù hợp với thực tiễn khu vực. Nghiên cứu “Bảo tồn văn hóa dân tộc ở Kashgar trong quá trình hiện đại hóa” của Mã Thắng Cường đã bổ sung một hướng nghiên cứu mới khi phân tích tác động của tiến trình hiện đại hóa đối với văn hóa dân tộc thiểu số. Kashgar thuộc khu tự trị dân tộc Uyghur Tân Cương, Trung Quốc, một khu vực ở biên giới Trung Quốc nên sẽ có sự tương đồng về tính chất khu vực đối với huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Một số báo cáo khác đề cập trực tiếp đến tập tục cúng rừng của các dân tộc thiểu số tại Trung Quốc như “Nhìn nhận về yếu tố văn hóa sinh thái trong tập tục cúng rừng thờ cây của các dân tộc tại Trung Quốc” do tác giả Cổ Khai Tất chắp bút tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của sự biến đổi môi trường sinh thái tự nhiên và nhân văn đối với sự hình thành và phát triển của các tập tục cúng rừng, thờ cây của các dân tộc đang sinh sống tại Trung Quốc. Ngoài ra, nghiên cứu của Hồ Minh Tuyết với tiêu đề “Nghiên cứu về tục thờ cây của các dân tộc vùng biên giới Trung Quốc dưới góc nhìn so sánh văn hóa dân gian” đã tiến hành phân tích biểu hiện thế tục của tập tục thờ cây của các dân tộc vùng biên giới Trung Quốc thông qua truyền thuyết, phong tục, nghi lễ, đồng thời giải thích quá trình phát triển và biến đổi của tục thờ cây trong bối cảnh văn hóa dân tộc. Qua quá trình nghiên cứu, tôi nhận thấy tư liệu từ các nghiên cứu này có thể làm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho đề tài.

Ý nghĩa khoa học
Trước đây, đã có không ít những bài nghiên cứu nói về việc bảo tồn văn hóa dân tộc thiểu số ở cả trong và ngoài nước. Đặc biệt, đối với dân tộc Hà Nhì, cũng đã từng có những bài báo nói về tập tục của đồng bào Hà Nhì ở Lào Cai cũng như một số tỉnh thành khác ở Việt Nam. Lượng thông tin mà các bài nghiên cứu này cung cấp cho người đọc vô cùng phong phú, giúp họ hiểu thêm được phần nào về đời sống, lề lối sinh hoạt của người Hà Nhì. Xuất phát từ mục đích tương tự, đề tài sẽ đưa ra các số liệu và thông tin mang tính cập nhật hơn để phù hợp với thực trạng hiện tại của dân tộc Hà Nhì tại huyên Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Đề tài tập trung đi vào nghiên cứu sâu về “Nghi lễ cúng rừng” của đồng bào Hà Nhì tại địa bàn huyện Bát Xát, đưa ra những hiểu biết chung nhất về nghi lễ và những điểm đặc biệt ở các nhân tố như quá trình hình thành, thành phần tham gia,… của nghi lễ. Đồng thời, tích hợp việc nghiên cứu về nghi lễ với công tác bảo tồn văn hóa dân tộc thiểu số của huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Từ quá trình phân tích, đánh giá, đề ra được những giải pháp phù hợp với tình hình và đường lối phát triển của tỉnh trong thời kỳ mới – thời kỳ mà Việt Nam đang phấn đấu cho sự bứt phá và chuyển mình mạnh mẽ.