Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ chứa “口/ Miệng, mồm, khẩu” trong tiếng Hán và tiếng Việt

Trang chủ / Ngân hàng ý tưởng

Tổng quan

Nhu cầu thực tiễn
Những công trình nghiên cứu về thành ngữ đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, mở ra cánh cửa giúp chúng ta hiểu hơn về sự phong phú, đa dạng của ngôn ngữ và văn hóa. Tuy nhiên, là điểm giao thoa giữa văn hóa và ngôn ngữ, thành ngữ bản thân nó chứa đựng bề dày lịch sử, văn hóa và những thông tin tâm lý xã hội sâu sắc. Vì vậy, thông qua việc đối chiếu, phân tích thành ngữ Hán – Việt, chúng ta có thể đào sâu hơn những điểm tương đồng và khác biệt trong biểu đạt ngôn ngữ của hai nền văn hóa, hé lộ nguồn gốc lịch sử của sự giao lưu văn hóa giữa hai nước. Điều này không chỉ giúp chúng ta kế thừa và phát huy tốt hơn văn hóa dân tộc mà còn nâng cao khả năng biểu đạt ngôn ngữ, tăng cường sự tự tin vào văn hóa bản địa. Có thể nói, việc nghiên cứu đối chiếu thành ngữ của hai ngôn ngữ thực sự mang ý nghĩa học thuật và thực tiễn quan trọng. Sự quan tâm của nhân dân hai nước Trung – Việt đối với “miệng” không phải là nhu cầu sinh lý mà còn là khát vọng biểu đạt cảm xúc và giao tiếp xã hội. Dù là trò chuyện không ngừng hay thưởng thức món ăn ngon lành, đó đều là những cách mà con người tìm kiếm sự thỏa mãn về mặt tâm lý. “Văn hóa miệng” này phản ánh tâm lý văn hóa coi trọng quan hệ giữa người với người và theo đuổi sự hài hòa cùng tồn tại của nhân dân hai nước. Thông qua việc nghiên cứu sâu các thành ngữ chứa chữ “口” và đối chiếu với các thành ngữ tương ứng trong tiếng Việt, chúng ta có thể hiểu một cách toàn diện hơn ý nghĩa phong phú mà “口” mang trong văn hóa ngôn ngữ Hán – Việt, từ đó nắm bắt sâu sắc hơn nét quyến rũ độc đáo của văn hóa Trung – Việt. Ngoài ra, hiện nay không có nhiều học giả tiến hành nghiên cứu so sánh chứa chữ “口” trong thành ngữ tiếng Trung với tiếng Việt. Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ chứa “口/ Miệng, mồm, khẩu” trong tiếng Hán và tiếng Việt”

Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan
Những công trình nghiên cứu của Trung Quốc Khương Quang Huy (1994) đã khảo sát tình hình cơ bản của ngôn ngữ biểu cảm trong thành ngữ Hán ngữ thông qua các bộ phận cơ thể như “miệng, mũi, tai, mắt, mày, trán, mặt” và liệt kê hơn 1100 thành ngữ phản ánh ngôn ngữ biểu cảm của con người, trong đó có 174 thành ngữ chứa chữ “口” . Từ Ngân (2009) đã tiến hành phân tích so sánh nhận thức ẩn dụ – hoán dụ của các từ “khẩu, miệng” trong tiếng Anh và tiếng Hán dựa trên hình dạng, chức năng và cách thức hoạt động của chúng, từ đó thể hiện các phương thức nhận thức “lấy thân thể ví tâm hồn” và “lấy thân thể ví thân thể”. Trần Khiết (2010) đã so sánh các từ ngữ về khoang miệng như “khẩu, xỉ, thần, thiệt” trong thành ngữ tiếng Anh và tiếng Hán, chỉ ra sự khác biệt trong nhận thức của người Anh và người Hán khi trải nghiệm thế giới bên ngoài, từ đó khái quát hóa quy luật tư duy và nhận thức của con người. Vương Quốc Quyên (2011) đã phân tích ẩn dụ của chữ “口” trong tiếng Hán từ ba loại hình nhận thức ẩn dụ: ánh xạ từ lĩnh vực cơ thể người sang lĩnh vực phi cơ thể người, ánh xạ từ lĩnh vực phi cơ thể người sang lĩnh vực cơ thể người, và ánh xạ giữa hai cơ quan trong cùng lĩnh vực cơ thể người. Bà cũng chỉ ra rằng ẩn dụ đã làm cho từ “口” phong phú hơn về ngữ nghĩa, tăng cường khả năng biểu đạt và đặc trưng văn hóa của tiếng Hán. Lâm Na Nhiên (2019) trong nghiên cứu chuyên sâu về thành ngữ Hán – Thái chứa chữ “口” đã xem xét tổng thể biểu đạt ẩn dụ của các thành ngữ Hán – Thái liên quan đến chữ “口”, cho thấy hai ngôn ngữ này có những hiện tượng ngôn ngữ tương đồng lớn nhưng cũng có những khác biệt nhỏ. Dựa trên khảo sát và phân tích dữ liệu, bà đã tổng hợp sự chiếu xạ ẩn dụ của hai ngôn ngữ thành ba lĩnh vực mục tiêu: lĩnh vực ngôn ngữ, lĩnh vực tính cách – thái độ và lĩnh vực đời sống xã hội. Trịnh Văn Tài (2024) trong nghiên cứu so sánh nhận thức ẩn dụ của từ ngữ chứa yếu tố “口” trong tiếng Hán và từ ngữ chứa yếu tố “miệng” trong tiếng Việt đã phân tích so sánh nhận thức ẩn dụ của từ “口” trong tiếng Hán và tiếng Việt. Dựa trên lý thuyết ẩn dụ khái niệm của Lakoff và Johnson, ông đã chia ẩn dụ của từ ngữ chứa yếu tố “口” trong tiếng Hán và tiếng Việt thành ba loại chính: ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ định hướng không gian và ẩn dụ thực thể, sau đó tiến hành phân tích và so sánh. Những công trình nghiên cứu của Việt Nam Nguyễn Văn Khai (2005) đã khảo sát các câu tục ngữ về bộ phận cơ thể người thông qua việc thống kê số lượng, tìm ra đặc điểm của từng loại. Trong đó, các câu tục ngữ chứa “khẩu (miệng)” chiếm 10,31% tổng số tục ngữ về bộ phận cơ thể người theo thống kê của tác giả, chủ yếu biểu thị sự hưởng thụ, tiêu dùng của con người, giao tiếp ngôn ngữ, công việc, tính cách cũng như địa vị và quyền hạn của người phát ngôn. Võ Đức Dao (2007) đã khảo sát 198 từ chỉ bộ phận cơ thể biểu thị tâm lý, ý chí, tình cảm và phát hiện ra nội hàm văn hóa đặc trưng trong ngữ liệu này. Thông qua biểu hiện bên ngoài của con người và cách hoán dụ trong ngôn ngữ, ông đã phản ánh trạng thái tình cảm, ý chí và tâm lý của người Việt Nam, chỉ ra rằng các từ “hầu, thiệt, khẩu (miệng), thần” đều biểu thị hoạt động ngôn ngữ, giao tiếp. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Cầm Tú Tài (2008) trong nghiên cứu “Ngữ cố định: Có chứa từ chỉ bộ phận cơ thể tiếng Hán trong sự so sánh với tiếng Việt” đã đi sâu nghiên cứu 2601 ngữ cố định tiếng Hán chứa từ chỉ bộ phận cơ thể (bao gồm 1021 thành ngữ, 508 quán ngữ, 558 tục ngữ và 514 thành ngữ), phân tích nguồn gốc, cấu trúc, đặc điểm và nội hàm văn hóa của chúng. Nguyễn Thị Phương (2009) trong nghiên cứu “Đặc trưng ngôn ngữ – văn hóa của các từ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)” đã chỉ ra các đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của 1100 thành ngữ tiếng Việt (trong đó có 97 thành ngữ chứa “khẩu – mồm, miệng, khẩu”) và so sánh với các thành ngữ tương ứng trong tiếng Anh. Nguyễn Văn Hải (2016) trong luận án tiến sĩ nghiên cứu “Các từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt và các từ tương đương trong tiếng Anh” đã nghiên cứu ý nghĩa chỉ định, ý nghĩa kết hợp, ý nghĩa mở rộng và ý nghĩa văn hóa của các từ chỉ bộ phận cơ thể người như “đầu”, “mình/thân”, “tay”, “chân”, “mắt”, “mũi”, “miệng”, “tim”, “gan”, “lòng/dạ” trong tiếng Việt và tiếng Anh. Thông qua đối chiếu, ông đã hé lộ những điểm tương đồng và khác biệt của hai ngôn ngữ khi biểu đạt các khái niệm liên quan, làm nổi bật tính độc đáo về văn hóa của các từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt. Tuy nhiên, do giới hạn về ngữ liệu, nghiên cứu này chưa thể bao quát hết các cách gọi tên và đặc điểm ngữ nghĩa của các từ chỉ bộ phận cơ thể người trong cả hai ngôn ngữ Việt – Anh. Nguyễn Hải Quỳnh Anh (2023) trong nghiên cứu “Đối chiếu từ ngữ chỉ tay và các động từ biểu thị hoạt động của tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt” đã phân tích đối chiếu các từ ngữ liên quan đến “tay” và các động từ biểu thị hành động của tay từ góc độ lý thuyết trường nghĩa, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng.

Ý nghĩa khoa học
Bài nghiên cứu này nghiên cứu sâu thành ngữ Hán ngữ chứa “口”, phân tích ngữ nghĩa, văn hóa và nhận thức. Mục tiêu là làm sâu sắc hiểu biết về thành ngữ Hán, đồng thời mở rộng ngữ liệu và góc nhìn cho nghiên cứu đối chiếu Hán – Việt. Kết quả bài nghiên cứu còn cung cấp ví dụ thực tiễn cho giao lưu văn hóa liên ngôn ngữ và tài liệu tham khảo cho ngôn ngữ học tri nhận, ngôn ngữ học văn hóa, góp phần phát triển lý thuyết ngôn ngữ học. Từ đó, giúp người học hiểu sâu và dùng đúng thành ngữ Hán liên quan đến “口”, tránh hiểu lầm văn hóa; thúc đẩy giao lưu văn hóa, giảm thiểu hiểu lầm liên văn hóa. Đây còn là nguồn tài liệu hữu ích cho giảng dạy và nâng cao chất lượng biên phiên dịch Hán – Việt.