Nền kinh tế thế giới và Việt Nam nói riêng đã và đang trải qua giai đoạn khó khăn do hậu dịch Covid 19 để lại do sự bất ổn trong chuỗi cung ứng trên toàn cầu gây ra bởi những bất ổn chính trị và lạm phát tăng kỷ lục từ các quốc gia phát triển như Mỹ và châu Âu. Từ các số liệu, các bài báo về số doanh nghiệp phá sản ở Việt Nam từ năm 2019 đến nay, cho thấy có một làn sóng phá sản doanh nghiệp đang âm thầm diễn ra và dường như đang trở nên mạnh mẽ hơn.Thực tế trong thương trường khắc nghiệt doanh nghiệp bị phá sản là điều khó tránh khỏi, nhưng chúng ta cần hướng tới việc giảm bớt tỉ lệ các công ty phá sản, để thúc đẩy môi trường kinh doanh, góp phần tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, những diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 tại Việt Nam cũng như thế giới tác động nghiêm trọng tới nền kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh. Số doanh nghiệp phá sản gia tăng trong nhiều năm phản ánh sự khó khăn của điều kiện sản xuất, kinh doanh. Dẫn đến tổng cầu một số ngành đã và đang giảm sâu do tác động của đại dịch Covid-19. Nếu tiếp tục tình trạng này Việt Nam sẽ rơi vào khủng hoảng nặng, ảnh hưởng tới kinh tế và đời sống nhân dân. Đặc biệt nợ tăng cao sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Để ngăn chặn tình hình này tiếp diễn, chúng ta cần loại bỏ các rủi ro tài chính tiềm ẩn xác định mức độ lành mạnh tài chính của công ty để ngăn chặn rủi ro phá sản của họ.
Do đó, mặc dù là vấn đề bức thiết trong thực tế nhưng cho đến nay việc hạn chế và ngăn ngừa rủi ro phá sản của các công ty phi tài chính được niêm yết trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam chưa được nghiên cứu chi tiết và thực hiện dựa trên các luận cứ khoa học chặt chẽ. Do vậy, để bổ sung thêm bằng chứng về phân tích rủi ro phá sản nhằm giải quyết những tồn tại nêu trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu: “Mô hình dự báo rủi ro tài chính và nguy cơ phá sản của công ty phi tài chính ở Việt Nam”. Chúng tôi cho rằng đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.