Tổng quan
Nhu cầu thực tiễn
Văn học là một loại hình nghệ thuật thể hiện thái độ, tình cảm và suy nghĩ. Không có tác phẩm nào không có thái độ, chỉ có tác phẩm thể hiện thái độ khác nhau theo những cách khác nhau. Những lựa chọn tu từ và hệ thống sự kiện trong tác phẩm phản ánh tính cách, thái độ và sở thích của tác giả. Chỉ có điều là trong một số tác phẩm, cách thể hiện này trực tiếp và rõ ràng, người đọc có thể thấy ngay, trong khi ở một số tác phẩm khác, nó lại gián tiếp và ngầm hiểu, thậm chí mơ hồ. Cái trước thường được thể hiện thông qua trữ tình và lập luận, trong khi cái sau thường được thể hiện thông qua ẩn dụ và biểu tượng. Bất kể sử dụng phương pháp nào, tác phẩm cuối cùng sẽ cho thấy sự hiện diện của tác giả và tầm quan trọng của thái độ của tác giả, giống như học giả người Mỹ Leon Semillian đã nói: “Thái độ của tác giả định hình tông điệu cho tác phẩm và mang đến sự thống nhất nội tại tinh tế cho một tác phẩm. Bất kể thái độ của tác giả có tách biệt đến đâu, cho dù bản thân tác giả là người kể chuyện, nói thông qua một nhân vật hay kể chuyện từ góc nhìn của một nhân vật, thì cuối cùng, chính tác giả là người diễn giải và đánh giá các sự kiện trong tác phẩm”. Về cơ bản, tác phẩm là phương tiện và công cụ đặc biệt được tác giả sử dụng để thể hiện thái độ của mình đối với cuộc sống và những trải nghiệm sống. Thái độ, suy nghĩ và giọng văn của tác giả là những yếu tố chi phối và có ảnh hưởng nhất trong một tác phẩm. Không có một tác phẩm nào thực sự có thể được viết ra nếu tác giả không có chút thôi thúc nào để thể hiện bản thân. Đây là lý do tại tôi rất quan tâm đến nghiên cứu văn học. Tôi muốn cảm nhận được cảm xúc của tác giả trong từng tác phẩm, để tôi có thể hiểu rõ hơn về cuộc sống và đối xử với người khác cũng như với chính mình theo một góc nhìn khác. Từ đó ta có thể thấy rằng văn học là cách làm phong phú thêm cuộc sống và cho phép ta trân trọng nhiều điều trên thế giới. Trung Quốc và Việt Nam có núi và sông nối liền, có lịch sử giao lưu văn hóa lâu đời nên có nhiều điểm tương đồng và khác biệt trên nhiều phương diện như văn hóa và ngôn ngữ. Lĩnh vực văn học cũng không ngoại lệ. “AQ chính truyện” của Lỗ Tấn và “Chí Phèo” của Nam Cao thuộc hai thời đại khác nhau. “AQ chính truyện” là ở thời cận đại (1921), còn “Chí Phèo” là ở thời hiện đại (1941). Tuy ở những thời đại khác nhau nhưng đều thuộc giai đoạn lịch sử kết thúc chế độ phong kiến phương Đông. Ngoài các chủ đề như trí thức và phụ nữ, hai bậc thầy văn học còn rất quan tâm đến các chủ đề như về người nông dân nghèo khó. Do đó, “AQ chính truyện” của Lỗ Tấn và “Chí Phèo” của Nam Cao về cơ bản có những điểm tương đồng và khác biệt, đặc biệt là về không gian nghệ thuật.
Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan
Nghiên cứu tại Trung Quốc
Nghiên cứu về Lỗ Tấn và các tác phẩm của Lỗ Tấn tại Trung Quốc Trong “论《阿Q正传》的模糊语言” (2004), Hồ Tam Như đã chỉ ra cách “AQ chính truyện” sử dụng ngôn ngữ mơ hồ để tạo thành phong cách tự do của riêng mình. Tác giả được chia thành hai đối số: phong cách tự do đòi hỏi nhân vật phải sống động và tự do yêu cầu mô tả phải khéo léo và ngầm. Từ phân tích của tác giả, có thể thấy rằng việc áp dụng thành công ngôn ngữ mờ trong “AQ chính truyện” không chỉ tăng cường bản chất tự do của cuốn tiểu thuyết này, mà còn thể hiện suy nghĩ sâu sắc của Lỗ Tấn. Khi xem xét tiểu thuyết dưới góc độ thủ pháp nghệ thuật, Thẩm Yến nhận thấy trong “《阿Q正传》的艺术缺陷及原因” (2006) rằng “AQ chính truyện” có nhiều khuyết điểm, thể hiện cụ thể ở: thứ nhất, sử dụng nhiều từ tiếng Hán cổ và từ ít thông dụng; thứ hai, nhân vật chính AQ không có tính cách thống nhất; thứ ba, “AQ chính truyện” trình bày một thế giới u ám, lạnh lẽo và tuyệt vọng, trong đó không có người tốt và không có động cơ tốt. Nguyên nhân của những khiếm khuyết này là vì đây là một tiểu thuyết hài hước mà Lỗ Tấn viết khi đang trong tình trạng tinh thần không tốt. Trong “《阿Q正传(节选)》中的重复叙事艺术” (2018), Triệu Tiểu Vũ chia hiện tượng lặp lại trong tiểu thuyết thành hai loại và phân tích chúng. Loại thứ nhất tập trung vào các chi tiết nhỏ, bao gồm các từ được lặp lại trong các thành phần lời nói, tu từ, miêu tả ngoại hình hoặc tâm trạng bên trong; và sự lặp lại ẩn dưới dạng ẩn dụ. Loại thứ hai là nhìn vào bức tranh lớn, sự lặp lại của các sự kiện, cảnh, chủ đề và sự lặp lại của các động cơ, chủ đề, nhân vật và sự kiện giữa một tác phẩm và các tác phẩm khác. Dương Lệ Huyền và Trương Kiến Ninh trong “《阿Q正传》的三重时间” (2021) chỉ ra rằng “Ngày 14 tháng 9, năm thứ ba của triều đại Tuyên Đồng” trong “AQ chính truyện” có thể được hiểu là có ba ý nghĩa. Đầu tiên, trong văn bản đóng, nút thời gian này đánh dấu sự thay đổi trong hành vi của AQ, do đó mở rộng sự thấp kém về mặt dân tộc của ông thành một ẩn dụ về cách mạng; Thứ hai, kết hợp với bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, thông tin thời đại này chỉ ra sự chưa hoàn thiện của Cách mạng 1911 và lý do dẫn đến thất bại của nó. Cuối cùng, theo quan điểm phê phán của giới trí thức, năm đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc thực chất là một sự tự tham chiếu của lịch sử, phản ánh sự suy ngẫm của chính Lỗ Tấn về khái niệm tiến hóa tuyến tính của lịch sử. Trong “《外套》与《阿 Q 正传》中小人物反抗比较研究” (2023) của Chu Chính Nhiên, nghiên cứu đã phát hiện ra rằng điểm chung giữa Bashmachkin và AQ là cả hai đều phản ánh tầm nhìn về sự giải phóng tư tưởng. Sự khác biệt giữa hai tác phẩm nằm ở chỗ Gogol thể hiện sự phản kháng của Bashmachkin nhằm thể hiện sự ngưỡng mộ của ông đối với sự giải phóng nhân cách thông qua sự khẳng định, trong khi Lỗ Tấn thể hiện sự phản kháng của AQ nhằm phơi bày tác hại của tư tưởng phong kiến đối với bản chất con người thông qua sự phê phán tiêu cực. Trong tác phẩm “试析《阿Q正传》中阿Q的性格特点” (2023), Từ Diên Linh phân tích tính cách AQ, nghiên cứu hình tượng người nông dân nghèo khổ, khiêm nhường sống dưới đáy xã hội. Trong “《阿 Q 正传》的“未庄”“城里”和普遍空间” (2023), Đoàn Tòng Tuyết chứng minh rằng trước khi AQ vào thành phố và gặp thế giới khác của thành phố, mặc dù làng Mùi nhỏ, nhưng đối với anh ta là một thế giới sống hoàn chỉnh và phổ quát, chứ không phải là một không gian văn hóa khu vực khép kín và đặc biệt. Sau khi bước vào thành phố với trải nghiệm làng Mùi, thế giới sống của A Q, bao gồm cả “thế giới thẩm mỹ” trừu tượng, không phải là làng Mùi ban đầu hay thành phố mà anh ta không hài lòng, mà là “thế giới thứ ba” bao gồm cả hai nhưng vượt qua tổng thể đơn giản của hai. Trong “鲁迅小说《阿Q正传》再解读” (2024), Trương Bá Tuấn phát hiện ra những bước ngoặt vô cùng có ý nghĩa trong câu chuyện dựa trên mối quan hệ luôn thay đổi giữa nhân vật chính AQ và hoàn cảnh của anh ta, và chia toàn bộ tiểu thuyết thành bốn loại: ẩn dụ, hoán dụ, hoán dụ và châm biếm. “AQ chính truyện” chuyển từ ẩn dụ về bản sắc dân tộc ở phần đầu sang phép ẩn dụ về sự sống còn, rồi sang phép ẩn dụ về chủ đề cách mạng theo nghĩa rộng và lớn, và cuối cùng chuyển thành sự hiểu biết mỉa mai của Lỗ Tấn về Cách mạng năm 1911. Nghiên cứu về Nam Cao và các tác phẩm của Nam Cao tại Trung Quốc Trong “文学作品中越南人名翻译初探——以《南高小说节选》巫宇译本为例” (2016), qua phân tích bản dịch tên của Ngô Vũ trong “Tuyển tập tiểu thuyết Nam Cao”, có thể thấy rằng, là người Quảng Châu, dịch giả đã chịu ảnh hưởng của bối cảnh văn hóa và ngôn ngữ trong quá trình dịch. Tất cả tên đều chứa ký tự “A”, chẳng hạn như “Azhi”, “Aqiang”, “Ajian”, điều này sẽ không phù hợp với hình ảnh và trạng thái của nhân vật. Vì vậy, khi dịch tên, cần phải khắc phục thói quen sử dụng phương ngữ, cân nhắc đến đối tượng độc giả, dịch theo cốt truyện của tiểu thuyết và đặc điểm nhân vật để có thể bám sát hơn vào văn bản gốc. Trung Quốc và Việt Nam có lịch sử giao lưu văn hóa lâu đời, và văn hóa Trung Quốc có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Việt Nam. Do đó, văn hóa Trung Hoa có thể được nhìn thấy trong ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, nhận thức tư duy, nghi thức tôn giáo. Điều này sẽ làm giảm sự khác biệt về văn hóa và hữu ích hơn cho công việc biên dịch. Trong tác phẩm “论《志飘》中的酒与酒神精神” (2019) của Tiêu Hiểu Vũ, ảnh hưởng của rượu và tinh thần rượu xuyên suốt cuộc đời của Chí Phèo. Rượu là thứ không thể thiếu trong cuộc sống của Chí Phèo để giải tỏa những cảm xúc bị kìm nén và nỗi đau bên trong. Tinh thần rượu là gốc rễ cho sự tự mãn và động lực sinh tồn của Chí Phèo. Xã hội phong kiến nơi Chí Phèo sống cùng lòng tốt và sự giản dị ẩn chứa trong trái tim anh cũng quyết định sự tất yếu dẫn đến bi kịch cuối cùng của anh. Trong “人物亚审丑视域下南高小说《志飘》的美学意义” (2022), Lương Sơn Sơn chỉ ra rằng “Chí Phèo” đã xây dựng một loạt nhân vật có quan niệm nghệ thuật tỉ mỉ và cách kể chuyện khéo léo, bao gồm Chí Phèo, Bá Kiến, Lý Cường, Năm Thọ, Chí Phèo,… Họ hoặc là những kẻ bóc lột được đại diện bởi chính trị quan liêu phong kiến, hoặc là những nông dân nô lệ tham nhũng và thoái hóa, hoặc là những người phụ nữ bị lãng quên và bị bóc lột trong bối cảnh đạo đức phong kiến. Mỗi nhân vật đều có mặt “xấu” ở nhiều mức độ khác nhau. Nhưng cái xấu và cái đẹp không hoàn toàn tách biệt; có một ranh giới rộng lớn giữa cái đẹp và cái xấu. Nghiên cứu so sánh về các tác phẩm của Lỗ Tấn và Nam Cao tại Trung Quốc Trong “试论南高与鲁迅笔下的“多余人”形象” (2015), Quách Văn Đẩu cho rằng: “Nam Cao và Lỗ Tấn đã sáng tạo nên một ‘thế giới không gian’ cho ‘người thừa’ trong tiểu thuyết của họ. Cùng một góc nhìn, những nhân vật này có nét tương đồng, nhưng ‘người thừa’ trong tiểu thuyết của Nam Cao và Lỗ Tấn đều có phong cách riêng và cuộc sống khác nhau. Điều này khiến hình tượng ‘người thừa’ trong tiểu thuyết của hai nhà văn trở nên đa dạng hơn”. “Người thừa” là hình ảnh người không tìm được chỗ đứng giữa hai nền văn hóa. Họ có trình độ văn hóa cao, không bằng lòng với thực tế xã hội, khao khát tạo ra sự khác biệt nhưng không tìm được phương hướng, thiếu can đảm hành động, sống trong trầm cảm và u sầu trong thời gian dài và trở thành “người thừa” trong xã hội. Họ sinh ra trong gia đình quý tộc, ghét tầng lớp thượng lưu nhưng không thể cưỡng lại, và nhận ra sự trống rỗng và buồn chán xung quanh họ. Họ nhìn xã hội với con mắt nghi ngờ, nhưng lại không thể thoát khỏi tình trạng khó khăn của chính mình. Họ cũng phản đối thực tế, nhưng chỉ giới hạn ở những cuộc thảo luận và đối thoại gay gắt, và có ít hành động thực tế. Những trí thức được Nam Cao và Lỗ Tấn miêu tả có nhiều khả năng sẽ trình bày thế giới nội tâm sống động và phong phú của những “người thừa” cho độc giả. Quách Văn Đẩu trong “南高与鲁迅小说艺术之比较研究” (2018) chỉ ra: “Từ ý tưởng sáng tạo đến xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự, xây dựng cốt truyện và nghệ thuật ngôn ngữ tiểu thuyết, tiểu thuyết của Nam Cao và Lỗ Tấn có những điểm tương đồng, nhưng cũng có những đặc điểm riêng. Kỹ thuật viết của Nam Cao và Lỗ Tấn có nhiều điểm tương đồng”. Bài viết này trước tiên phân tích ngôn ngữ và phong cách tiểu thuyết của Nam Cao và Lỗ Tấn, sau đó chỉ ra lý do cho sự giống và khác nhau giữa tiểu thuyết của Nam Cao và Lỗ Tấn. Quách Văn Đẩu tiến hành phân tích dựa trên nhiều yếu tố bao gồm bối cảnh lịch sử, sự nuôi dưỡng văn hóa và văn học, nguyên tắc và động lực sáng tạo, điều kiện quốc gia và nền tảng văn hóa, bản sắc và sự khác biệt về giai cấp, và kinh nghiệm cá nhân. Nghiên cứu về không gian nghệ thuật tại Trung Quốc Trong tác phẩm “论红日小说艺术空间的嬗变” (2020), Đàm Duy Nhất diễn giải đặc điểm sáng tạo của tiểu thuyết Mặt trời đỏ từ ba khía cạnh: sự lựa chọn và thiết lập ý thức địa phương trong tiểu thuyết Mặt trời đỏ, bước nhảy vọt và tổ chức lại sự hội nhập thành thị – nông thôn, sự tiến bộ và phát triển của ý thức hiện đại, đồng thời đánh giá các hoạt động nghệ thuật được trích dẫn trong tiểu thuyết từ các góc độ khác nhau. Nghiên cứu tại Việt Nam Nghiên cứu về Lỗ Tấn và các tác phẩm của Lỗ Tấn tại Việt Nam Trong “Nghệ thuật thẩm mỹ của cái xấu trong “AQ chính truyện”” (2003), Lý Kinh Đào cho rằng nền tảng sáng tác của Lỗ Tấn là sự phơi bày, sự phơi bày tàn nhẫn, vạch trần mọi loại xấu xí trong đời sống xã hội và soi xét mọi loại cuộc sống xấu xí trong đời thực. Ông Lỗ Tấn đã đánh giá và phủ nhận cái xấu từ góc độ quan niệm cái đẹp, tình cảm cái đẹp và lý tưởng cái đẹp. Có thể nói rằng những gì được bộc lộ trong quá trình này không phải là mong muốn và hy vọng về cái đẹp không? Ông Lỗ Tấn đã dùng ngòi bút phủ định để miêu tả sự xấu xí của thời đại đó, xã hội đó, đó chính là sự phủ định thời đại đó, xã hội đó. Ông đã để nhiều nhân vật xấu xí trong tác phẩm của mình bị hủy diệt, thực chất đó là lời nguyền hủy diệt thời đại và xã hội đó, bởi vì tổng hợp của một loạt các sự hủy diệt riêng lẻ chính là sự hủy diệt của xã hội đó; và chỉ khi xã hội xấu xa, đen tối và xấu xí bị phá hủy thì một xã hội mới tươi sáng, tươi đẹp mới có thể được xây dựng trên đống đổ nát của nó. Nghiên cứu về Nam Cao và các tác phẩm của Nam Cao tại Việt Nam Trong “Phát triển năng lực so sánh cho học sinh trong dạy tác phẩm “Chí Phèo”” (2015), Ngô Sĩ Khánh Hằng đã phân tích thể loại, kết cấu và nội dung của tác phẩm, từ đó đưa ra năng lực và biện pháp rèn luyện kỹ năng so sánh, đưa ra các yêu cầu về mặt logic và cấu trúc cho kỹ năng so sánh, đồng thời cung cấp cho học sinh bài tập rèn luyện kỹ năng so sánh khi học phân tích “Chí Phèo”. Trong “Phân tích sự thay đổi và nguyên nhân hình tượng trí thức trong tác phẩm Nam Cao” (2016), Trương Nguyệt Minh phân tích sự thay đổi hình tượng trí thức tiêu biểu trong tác phẩm Nam Cao, bao gồm cả những người đấu tranh giữa hiện thực và lý tưởng, đấu tranh trong sự hỗn loạn và hướng tới cách mạng; tiếp theo, tác giả phân tích những lý do dẫn đến sự thay đổi hình tượng trí thức trong tác phẩm Nam Cao, bao gồm ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử, ảnh hưởng của người quản lý tác giả và ảnh hưởng của các nhà văn khác. Trong tiểu thuyết của Nam Cao, việc miêu tả hình tượng người trí thức không chỉ phản ánh sự đàn áp của xã hội đen đối với người trí thức mà còn cho thấy sự phản ánh bản chất con người. Tuy nhiên, sự phức tạp của bản chất con người nằm ở chỗ sự tàn ác và thờ ơ là bản chất của con người, lòng tốt và lòng trắc ẩn cũng là bản chất của con người, sự ngu dốt là bản chất của con người, lý trí và trí tuệ cũng là bản chất của con người. Trong “Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong “Chí Phèo” của Nam Cao” (2016), tác giả phân tích thời gian và không gian của tác phẩm để hiểu những cảm xúc và ý nghĩa mà những chi tiết về thời gian và không gian này thể hiện. Nghiên cứu so sánh về các tác phẩm của Lỗ Tấn và Nam Cao tại Việt Nam Trong “Phân tích so sánh nhiều góc độ tác phẩm “AQ chính truyện” của Lỗ Tấn và “Chí Phèo” của Nam Cao” (2011), Nguyễn Thành Đạt tập trung nghiên cứu so sánh nội dung, xây dựng nhân vật tiêu biểu và biểu đạt nghệ thuật của hai tiểu thuyết. Sau đó, ông chỉ ra rằng hai tác giả có mục đích sáng tạo khác nhau và ý nghĩa tác phẩm của họ cũng khác nhau, đồng thời nghiên cứu và phân tích những lý do khác nhau.
Ý nghĩa khoa học
Nhiều người đã nghiên cứu toàn bộ nội dung, phương pháp dịch thuật và tính cách nhân vật trong “AQ chính truyện” và “Chí Phèo”. Họ đã mở rộng tầm nhìn của độc giả về hai cuốn tiểu thuyết này và cho họ biết rằng có nhiều góc độ có thể được khám phá trong hai cuốn tiểu thuyết này. Nhờ đó, độc giả hiểu rõ hơn về hai cuốn tiểu thuyết này và học được nhiều kiến thức bổ ích. Nhưng theo các bài nghiên cứu tác giả tìm hiểu thì cho đến nay vẫn chưa có ai phân tích không gian nghệ thuật của “AQ chính truyện”. Mặc dù một số người ở Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu về không gian nghệ thuật của “Chí Phèo”, nhưng tác giả không thể tiến hành nghiên cứu toàn diện về không gian nghệ thuật vì còn phải phân tích thêm về thời gian nghệ thuật. Vì vậy, bài nghiên cứu này sẽ tiến hành phân tích toàn diện không gian nghệ thuật của tác phẩm “Chí Phèo” và “AQ chính truyện”, sau đó so sánh không gian nghệ thuật của hai tác phẩm.