Khoảng cách quyền lực trong giao tiếp giữa giảng viên và sinh viên trong giảng đường Đại học: nghiên cứu trường hợp của Việt Nam và Đức

Trang chủ / Ngân hàng ý tưởng

Tổng quan
Nhu cầu thực tiễn
Khoảng cách quyền lực (power distance), thuật ngữ được đề xuất bởi Mauk Mulder (1977) và sau này được phổ biến rộng rãi hơn nhờ nghiên cứu của Hofstede (2010), là một khái niệm quan trọng trong nghiên cứu văn hóa và xã hội học, đặc biệt trong môi trường giáo dục (Cortina, Arel & Smith-Darden, 2017). Việc nghiên cứu khoảng cách quyền lực giúp nhận diện được cách thể hiện của khái niệm này, qua đó có thêm nhận thức về nó và ảnh hưởng của nó lên quá trình dạy và học, vốn là một nhân tố đặc biệt quan trọng trong tương tác giữa người dạy và người học, một trong những tương tác đóng vai trò then chốt trong môi trường giáo dục.
Ngày nay, nhờ vào sự phát triển của xã hội và xu hướng toàn cầu hóa, các cơ sở giáo dục đại học đang ngày càng trở nên đa văn hóa hơn. Theo Altbach và Knight (2007), toàn cầu hóa và di cư quốc tế đã làm tăng sự quốc tế hóa của các cơ sở giáo dục đại học, khi các trường đại học không chỉ phục vụ cho sinh viên nội địa mà còn mở rộng cửa đón nhận sinh viên và giảng viên quốc tế. Không chỉ di cư quốc tế, di cư trong nước cũng đóng góp vào sự đa dạng văn hóa trong các cơ sở giáo dục đại học. Ví dụ như ngay tại Hà Nội, với khoảng 70 trường đại học, 20 trường cao đẳng, 60 trường trung cấp, dạy nghề, nhiều trung tâm đào tạo của nước ngoài, thành phố hằng năm thu hút rất nhiều học sinh, sinh viên ngoại tỉnh tập trung về đây học tập (Đinh, 2010). Sự đa dạng văn hóa vùng miền của những người di cư đến Hà Nội vì mục đích giáo dục đã đóng góp vào việc làm phong phú thêm nền văn hóa của môi trường giáo dục đại học tại đây. Điều này dẫn tới sự thay đổi lớn trong môi trường đại học, mà một trong những thay đổi nổi bật nhất là sự phong phú hơn về những trải nghiệm, những góc nhìn từ các thành viên của những nền văn hóa khác nhau. Nghiên cứu về khoảng cách quyền lực do đó càng trở nên quan trọng hơn, bởi mỗi nền văn hóa lại có cách nhìn nhận về quyền lực và thứ bậc khác nhau, hiểu rõ những cách nhìn này sẽ giúp hiểu rõ hơn về cách mà các nhóm văn hóa đó tương tác, tôn trọng lẫn nhau và hợp tác trong môi trường giáo dục.

Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan
Khoảng cách quyền lực
Định nghĩa khoảng cách quyền lực
Khoảng cách quyền lực là một thuật ngữ được giới thiệu lần đầu bởi nhà tâm lý học xã hội Mauk Mulder, ông định nghĩa khái niệm này là “sự bất bình đẳng về quyền lực giữa một cá nhân ít quyền lực hơn (bản thân) và một người khác có quyền lực lớn hơn (người khác), trong đó “bản thân” và “người khác” thuộc về một hệ thống xã hội giống nhau (quan hệ chặt chẽ hoặc lỏng lẻo).” (Mulder, 1977).
Geert Hofstede đã tiến hành tổ chức nghiên cứu các giá trị văn hóa của nhiều dân tộc khác nhau trong khuôn khổ tập đoàn đa quốc gia IBM có trụ sở trên 50 nước. Kết quả của cuộc điều tra này được tổng hợp trong công trình nổi danh “Culture’s consequences” (“Hệ quả của văn hóa”), với năm chiều văn hóa được xác định là khoảng cách quyền lực, tính cá nhân – tính tập thể, tính nam – tính nữ, thiên hướng né tránh rủi ro, thiên hướng ngắn hạn – dài hạn. Tới năm 2010, công trình này được tái bản lần ba và có thêm một chiều văn hóa nữa được bổ sung là sự nuông chiều – sự kiềm chế. Trong tác phẩm “Culture and Organization: Software of the Mind” (“Văn hóa và tổ chức: Phần mềm của tâm trí”), Hofstede định nghĩa khoảng cách quyền lực là “mức độ mà các cá nhân có ít quyền lực hơn trong các thể chế xã hội hoặc các tổ chức trong phạm vi một quốc gia kỳ vọng và chấp nhận việc quyền lực được phân bố không đồng đều” (Hofstede, 2010). Thể chế ở đây được Hofstede định nghĩa là những đơn vị cơ bản cấu thành một xã hội, như gia đình, trường học, cộng đồng; còn tổ chức được định nghĩa là nơi con người ta làm việc. Khoảng cách quyền lực, theo như định nghĩa này, được miêu tả dựa trên giá trị quan của những cá nhân ít quyền lực hơn, thay vì dựa trên hành vi của những cá nhân nắm quyền lực trong các nhóm. Định nghĩa này của Hofstede đã được trích dẫn và sử dụng rộng rãi trong các công trình nghiên cứu về văn hóa.

Nguyên nhân hình thành khoảng cách quyền lực
Khoảng cách quyền lực, theo định nghĩa nêu trên, là mức độ kỳ vọng và chấp nhận sự phân chia quyền lực không đồng đều. Sự kỳ vọng và chấp nhận này bắt nguồn từ những nhận thức về bất bình đẳng của mỗi cá nhân và xã hội. Nguyên nhân đứng sau những nhận thức này tới giờ vẫn chưa được chỉ ra hoàn toàn, nhưng cũng đã có những nghiên cứu chỉ ra một vài yếu tố đóng vai trò nổi bật.

Môi trường
Môi trường xung quanh của một người thường có ảnh hưởng lớn tới nhận thức của họ về bất bình đẳng xã hội (Hauser & Norton, 2017). Một khảo sát của Cruces và cộng sự (2013) tại Argentina đã chỉ ra rằng phân hạng xã hội của một người trong cộng đồng địa phương của họ sẽ có ảnh hưởng tới cách họ nhìn nhận về bất bình đẳng trên phạm vi toàn quốc gia. Một nghiên cứu khác của Xu và Garand (2010) cũng nhận định tương tự, rằng một người sẽ dựa vào những quan sát về địa phương (bang) của họđể đưa ra phán đoán về bất bình đẳng trên phương diện quốc gia.

Truyền thông
Truyền thông cũng là một nguồn động lực đáng kể tác động đến sự nhìn nhận về bất bình đẳng của một người. Diermeier và cộng sự đã tổ chức nghiên cứu phạm vi đưa tin về bất bình đẳng của truyền thông Đức kết hợp với phỏng vấn để tìm hiểu về sự tương quan giữa truyền thông và mối lo ngại của người dân. Kết quả cho thấy, những tin tức về bất bình đẳng xã hội càng nhiều thì độ quan ngại của người dân về bất bình đẳng và công lý xã hội càng cao (Diermeier và cộng sự, 2017). Tuy nhiên, quan ngại không có nghĩa là sẽ có những hành động thích hợp để thay đổi sự bất bình đẳng, như nghiên cứu của Fehr và cộng sự (2020) chỉ ra, tuy mối quan tâm về bất bình đẳng xã hội đã tăng lên, những chính sách tương ứng vẫn còn ít ỏi, do người ta thường quy kết trách nhiệm cho những bất bình đẳng đó về những nguồn khác nhau.

Tư tưởng
Hệ tư tưởng “trọng dụng nhân tài” (meritocracy) của phương Tây nhấn mạnh vào phản ứng cá nhân hơn tập thể khi đối diện với bất bình đẳng về mặt vật chất lẫn xã hội (Taylor và cộng sự, 1987), dẫn tới tư duy rằng chỉ cần cá nhân cố gắng đủ thì có thể vượt qua được những bất bình đẳng sẵn có trong xã hội, qua đó cá nhân chấp nhận những bất bình đẳng này, thay vì yêu cầu sự thay đổi trên phương diện toàn xã hội và từ bên trong thể chế. Ngoài ra, Savani và Rattan (2012) cũng chỉ ra rằng, khi được đề xuất khái niệm “tự do lựa chọn”, những người tham gia khảo sát của họ ít khó chịu bởi các số liệu thống kê chứng minh sự bất bình đẳng về của cải, bớt tin rằng các yếu tố xã hội góp phần vào sự thành công của người giàu, không còn sẵn sàng ủng hộ việc phân phối lại các nguồn lực giáo dục bình đẳng hơn giữa người giàu và người nghèo như trước [khi khái niệm kia được giới thiệu và nhấn mạnh], cũng ít sẵn sàng ủng hộ việc tăng thuế đối với người giàu để giúp đất nước nói chung. Từ đó cho thấy, tư tưởng tự do lựa chọn cũng có ảnh hưởng tới thái độ chấp nhận trước những bất bình đẳng của xã hội.
Các quốc gia Đông Á và Việt Nam chịu ảnh hưởng lâu đời của Nho giáo, với tư tưởng rằng hệ thống thứ bậc được thành lập ra để duy trì sự hài hòa trong xã hội, do đó cũng chấp nhận tôn ti trật tự, thừa nhận và tự giác tuân theo những danh phận và địa vị do xã hội đặt ra. Điều này thể hiện rõ trong ngôn ngữ của các quốc gia này, tùy theo vai vế của người đối thoại mà người nói sẽ sử dụng kính ngữ hay nói chuyện với thái độ thân mật.

Tác động của khoảng cách quyền lực đến hoạt động giao tiếp
Ảnh hưởng tới cảm xúc
Trong bối cảnh khoảng cách quyền lực lớn, người với ít quyền lực hơn trong mối quan hệ hoặc tổ chức thường sẽ trông đợi và chấp nhận những cảm xúc tiêu cực hoặc chỉ trích từ người có nhiều quyền lực hơn. Matsumoto (1990) đã chỉ ra rằng người Nhật (một quốc gia với chỉ số khoảng cách quyền lực ở mức cao) dễ chấp nhận việc bày tỏ sự giận dữ với người có địa vị xã hội thấp hơn mình hơn so với người Mỹ (quốc gia với chỉ số khoảng cách quyền lực ở mức thấp hơn). Tương tự vậy, ở những xã hội có khoảng cách quyền lực lớn, những lời lăng mạ nhắm vào cấp dưới cũng ít khiến người cấp dưới đó cảm thấy bực tức hơn, vì chúng được coi như là chuyện hiển nhiên, thậm chí dễ lường trước (Bond và cộng sự, 1985). Ngược lại, khi tương tác với đối tượng ở địa vị cao hơn mình, người ở xã hội với khoảng cách quyền lực lớn sẽ kìm nén cơn giận hoặc những cảm xúc tiêu cực nói chung hơn người thuộc xã hội với khoảng cách quyền lực nhỏ (Grandey và cộng sự, 2010).
Ngoài ra, nghiên cứu của Cortina, Arel và Smith-Darden (2017) cũng chỉ ra rằng, ở những xã hội với khoảng cách quyền lực nhỏ, người trên và người dưới có quyền lực cân bằng hơn, học sinh sẽ cảm thấy “thuộc về” (belonging) và gắn bó với trường học hơn là ở những xã hội với hệ thống thứ bậc hà khắc. Những du học sinh từ các nền văn hóa với khoảng cách quyền lực cao cũng khó bắt kịp về mặt xã hội và ít cảm thấy gắn bó với cơ sở giáo dục mình theo học hơn là những du học sinh từ các nền văn hóa với khoảng cách quyền lực nhỏ.

Ảnh hưởng tới việc phê bình đánh giá
Ở những xã hội với khoảng cách quyền lực lớn, việc phê bình đánh giá hiệu suất năng lực của người với quyền lực cao hơn (sếp hoặc giáo viên) thường được cho là không cần thiết và thiếu tôn trọng, khiến người ở địa vị thấp hơn cảm thấy không thoải mái hoặc khó xử. Do đó, các nghiên cứu đều chỉ ra rằng những phê bình đánh giá của cấp dưới dành cho cấp trên này thường thoải mái hơn, tích cực hơn, và cũng tôn trọng hơn, để tránh vô lễ và gây mất mặt cho cấp trên, qua đó tránh được việc đe dọa tới trật tự xã hội và hệ thống cấp bậc từ lâu đời (Ng và cộng sự, 2011; Varela & Premeaux, 2008; Bond và cộng sự, 1985).
Những người quen với văn hóa có khoảng các quyền lực thấp cũng thoải mái đến nhờ người có địa vị cao hơn mình góp ý về những gì mình đã làm, trong khi những người ở nền văn hóa có khoảng cách quyền lực lớn thì dè dặt và tránh hỏi xin ý kiến, thậm chí là tránh tương tác riêng tư hơn (de Luque & Sommer, 2000). Điều này cũng đúng ở chiều ngược lại, ở những nền văn hóa có khoảng cách quyền lực lớn, người ở địa vị cao hơn sẽ ít tìm tới những người ở địa vị thấp hơn mình để hỏi ý kiến đóng góp, họ cũng khó chấp nhận những ý kiến đóng góp đến từ người ở địa vị thấp hơn mình, vì cho rằng đó là một dấu hiệu của điểm yếu. Có thể thấy, trong xã hội với khoảng cách quyền lực lớn, việc phê bình đánh giá thường chỉ mang một chiều dọc, từ cấp trên xuống cấp dưới, chứ không có chiều ngược lại.

Khoảng cách quyền lực giữa người dạy và người học
Trong các nghiên cứu đã tham khảo, khoảng cách quyền lực trong lớp học thường được thể hiện thông qua những yếu tố như: sự thoải mái trong giao tiếp, kỳ vọng vào vai trò của giáo viên cũng như vai trò của học sinh và phong cách dạy và học trong lớp học đó. Tiêu biểu như nghiên cứu của Michiko Kasuya tập trung vào khó khăn trong giao tiếp giữa học sinh và giáo viên và vướng mắc gặp phải trong phương pháp dạy học bằng giao tiếp trong một lớp học Nhật Bản. Ngoài ra, nghiên cứu này còn tập trung vào vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của học sinh Nhật Bản trong lớp học. Một nghiên cứu khác của Alvin Hwang lại tập trung vào ảnh hưởng của khoảng cách quyền lực đến kênh nhận xét của giáo viên tới học sinh. Nghiên cứu của Abdulaziz Alshahrani, được xuất bản trong Tạp chí Tiếng Anh Thế giới Ả Rập, đề cập đến tất cả các yếu tố trên, bao gồm sự thoải mái trong giao tiếp, kỳ vọng vào vai trò của giáo viên và học sinh, cũng như phong cách dạy và học. Nghiên cứu của Dongmei Li và Xing Guo (2012) còn mở rộng thêm về vai trò của giáo viên và học sinh bêncạnh những yếu tố đã kể trên.Ví dụ trong lớp học Nhật Bản, nơi có khoảng cách quyền lực lớn, phương pháp dạy học giao tiếp thường gặp khó khăn do học sinh ít chủ động (Kasuya, 2008). Giáo viên Nhật Bản cũng thường thoải mái hơn với phương pháp giảng dạy diễn giải so với quy nạp (Alshahrani, 2017).
Tương tự, trong lớp học Trung Quốc, học sinh thường có thái độ phục tùng và thụ động trong giao tiếp phi ngôn ngữ, ngồi im lặng và dựa vào sự hướng dẫn của giáo viên (Mui, Goudbeek, Swerts, và van der Wijst, 2013; Cheng và Ding, 2020). Giáo viên Trung Quốc đã quen với việc kiểm soát lớp học hoàn toàn, coi việc học tập liên quan đến nắm vững kiến thức chia nhỏ dễ hiểu (Watkins và Biggs, 2001; Kasuya, 2008).
Lớp học Indonesia cũng có khoảng cách quyền lực cao, với học sinh tránh đặt câu hỏi và thụ động (Alshahrani, 2017). Tuy nhiên, nghiên cứu của Maulanaa và cộng sự (2011) chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa học sinh và giáo viên, với giáo viên giữ vai trò kiểm soát và thúc đẩy sự hợp tác, động cơ học tập của học sinh.
Trái lại, lớp học có khoảng cách quyền lực thấp như ở Canada và Úc có đặc trưng giáo viên gần gũi, tin tưởng và cho phép học sinh tự do thể hiện, thắc mắc và giải quyết khúc mắc (Alshahrani, 2017; Chang và Chin, 1999; Hong Fan, Jeffrey W. Power & Xiaofei Song, 2017). Học sinh ở những môi trường này thoải mái trong giao tiếp, không ngần ngại hỏi lại và đưa ra nhận xét của mình. Ở Úc, không nhất thiết phải gọi giáo viên một cách trang trọng, kính cẩn như xã hội châu Á (Chang và Chin, 1999).
Thông qua các ví dụ trên, có thể thấy sự khác nhau giữa lớp học có khoảng cách quyền lực lớn và khoảng cách quyền lực nhỏ được khắc họa rõ nhất qua hành động giao tiếp của học sinh với giáo viên và vai trò trong lớp học của người dạy và người học. Trong các lớp học có khoảng cách quyền lực lớn, học sinh thường ngần ngại trong giao tiếp và thể hiện bản thân, nhất là giao tiếp về các thắc mắc và ý kiến cá nhân. Học sinh trong các lớp học này thường thụ động và có tinh thần phục tùng trước các hành động, cử chỉ cũng như lời nói của giáo viên. Họ thường đóng vai trò là người nghe cũng như là người tiếp thu nhiều hơn. Giáo viên trong ngữ cảnh này thường là người đứng đầu lớp học, có quyền hạn gần như tuyệt đối với lớp và đóng vai trò là nguồn thông tin lớn nhất trong lớp. Còn đối với những lớp học có khoảng cách quyền lực thấp, học sinh thường tự do thể hiện bản thân và nâng cao quan điểm của mình hơn. Ta cũng có thể thấy thông qua nghiên cứu về môi trường học tập của các nước, lớp học có khoảng cách quyền lực thấp hơn thường có không khí thoải mái hơn, gần gũi hơn giữa giáo viên và học sinh do giáo viên thường kiên nhẫn và thoải mái hơn.
Khi so sánh khoảng cách quyền lực trong trường học của các nền văn hóa khác nhau, Hofstede nhận ra những mẫu hình biểu hiện tương đồng với khi so sánh khoảng cách quyền lực trong gia đình của các nền văn hóa. Cặp vai trò cha mẹ – con cái được thay thế bằng cặp vai trò giáo viên – học sinh, nhưng những giá trị cốt lõi nhất và những biểu hiện căn bản nhất vẫn được lặp lại tương tự, đưa từ phạm vi xã hội này sang phạm vi xã hội khác (Hofstede, 2010). Người thầy thường được coi như vị “phụ huynh thứ hai” của người học, khi họ là người trực tiếp truyền dạy kiến thức cho học sinh của mình phần lớn thời gian trong ngày. Vì vậy, để dễ dàng làm rõ hơn và định lượng hóa nghiên cứu này, ta sẽ quy sự thoải mái trong giao tiếp, kỳ vọng vào vai trò của giáo viên cũng như vai trò của học sinh và phong cách dạy và học trong lớp học thành các yếu tố thành phần như ở mục sau.
Biểu hiện của khoảng cách quyền lực giữa người dạy và người học Mặc dù hành vi và thái độ có thể khác nhau tùy thuộc vào văn hóa của từng môi trường sư phạm nhưng nhìn chung vẫn có những điểm tương đồng. Hofstede (1986) đã tổng hợp và phân loại một số hành vi cũng như thái độ thường gặp trong môi trường lớp học theo khoảng cách quyền lực và tổng hợp được bảng như sau:

Khoảng cách quyền lực nhỏKhoảng cách quyền lực lớn
Nhấn mạnh vào “sự thật” khách quan
(có thể kiếm được từ bất kể ai có năng
lực)
Giáo viên tôn trọng tính độc lập của học
sinh
Giáo dục lấy học sinh làm trung tâm (đề
cao tính chủ động)
Giáo viên muốn học sinh xung phong
trao đổi
Giáo viên muốn học sinh phải tìm hướng
đi riêng
Học sinh có thể tự do phát biểu trong lớp
Độ hiệu quả trong việc học phụ thuộc
vào tần suất giao tiếp hai chiều trong lớp
học
Học sinh có quyền phản bác và chỉ trích
giáo viên
Bên ngoài lớp học, giáo viên được coi là
người ngang hàng
Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa giáo
viên/học sinh, phụ huynh nghiêng về phía
học sinh
Giáo viên trẻ được ưa thích hơn giáo
viên có tuổi
Nhấn mạnh vào “kiến thức” chủ quan
(được chuyển giao trong mối quan hệ với
một giáo viên cụ thể)
Giáo viên hiển nhiên có được sự tôn
trọng của học sinh
Giáo dục lấy giáo viên làm trung tâm (đề
cao trật tự lớp học)
Học sinh muốn giáo viên khởi xướng
giao tiếp
Học sinh muốn giáo viên cầm tay chỉ
việc
Học sinh chỉ phát biểu khi được gọi
Độ hiệu quả trong việc học phụ thuộc
vào trình độ người giáo viên
Không bao giờ có phản bác hay chỉ trích
giáo viên công khai
Giáo viên được kính trọng ngay cả ngoài
lớp học
Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa giáo
viên/học sinh, phụ huynh nghiêng về phía
giáo viên
Giáo viên có tuổi được kính trọng hơn
giáo viên trẻ
(Hofstede, 1986)

Để dễ hình dung và đánh giá, ta có thể nhóm các hành vi mà Hofstede (1986) đã
liệt kê thành các nhóm hành động như sau:

  • Tôn trọng cá nhân có thẩm quyền: Sinh viên thể hiện sự tôn trọng tuyệt đối với giảng viên và người quản lý trường học, không bao giờ phản kháng hay chất vấn các quyết định và ý kiến của họ.
  • Tuân thủ các quy tắc: Sinh viên tuân thủ các luật lệ và quy định mà không chất vấn hay nghi ngờ về tính công bằng và thích đáng của chúng.
  • Chấp nhận bất bình đẳng: Sinh viên ngầm chấp nhận hệ thống thứ bậc và các bất bình đẳng là bình thường và không thể tránh khỏi trong hệ thống giáo dục.
  • Đề cao sự phụ thuộc vào người có thẩm quyền: Sinh viên ưu tiên tạo dựng hình ảnh là một học sinh ngoan ngoãn, nghe lời và phụ thuộc vào chỉ dẫn của giảng viên thay vì chủ động thể hiện bản thân khi có sự hiện diện của giáo viên.
  • Đối tượng trung tâm của quá trình dạy và học: Khoảng cách quyền lực quyết định mô hình lớp học sẽ xoay quanh giáo viên hay giảng viên.
    Việc phân loại và gộp các hành động mà Hofstede (1986) đã liệt kê, ta có cái
    nhìn tổng quan hơn về cách giao tiếp giữa giảng viên và sinh viên. Từ đó ta dễ dàng
    đánh giá cũng như quan sát xem đâu là lớp học có khoảng cách quyền lực lớn và lớp học nào có khoảng cách quyền lực nhỏ phục vụ cho nghiên cứu này.

Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu này so sánh giữa Việt Nam và Đức, hai quốc gia có hệ thống giáo dục và văn hóa khác biệt rõ rệt, nhằm cung cấp một góc nhìn đa chiều và phong phú. Theo Hofstede (2010), Đức có môi trường khoảng cách quyền lực thấp hơn (ở mức 35, so với mức trung bình là 53), còn Việt Nam có mức độ khoảng cách quyền lực cao hơn (ở mức 70), sự khác biệt rõ rệt này còn tồn tại do nền giáo dục Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn đổi mới, còn chịu nhiều ảnh hưởng từ các yếu tố văn hóa truyền thống (Đào, 2014). Không chỉ làm rõ các vấn đề lý thuyết, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này còn nhắm tới những áp dụng thực tiễn, như đề xuất những chính sách và phương pháp giảng dạy hiệu quả hơn, giúp giảm bớt khoảng cách quyền lực không cần thiết, tạo ra môi trường học tập bình đẳng và khuyến khích sự sáng tạo của sinh viên. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, việc hiểu rõ và quản lý khoảng cách quyền lực là cực kỳ cần thiết, giúp định hướng xây dựng các chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội hiện đại.