Khảo sát từ ngữ mang thanh nhẹ trong tiếng Hán hiện đại và ứng dụng trong giảng dạy tiếng Hán cho người Việt (现代汉语轻声词语考察及其 对越汉语教学应用)

Trang chủ / Ngân hàng ý tưởng

Tổng quan
Nhu cầu thực tiễn
Thanh nhẹ là một trong những hiện tượng đặc biệt và quen thuộc của tiếng Hán. Thanh nhẹ không chỉ liên quan đến ngữ âm mà còn có mối quan hệ đặc biệt với từ vựng và ngữ pháp. Chẳng hạn “大意”(dà·yi) và “大意” (dàyì) có cách đọc gần giống nhau nhưng chúng lại mang từ loại và nghĩa khác nhau. “大意”(dà·yi) là tính từ, mang nghĩa qua loa, không chú ý còn “大意” (dàyì) là danh từ chỉ ý chính, nội dung chính.
Ngay khi tiếp xúc với tiếng Hán, người học đã được giới thiệu và học về hiện tượng biến âm đặc biệt này. Dù vậy việc học tập cũng như giảng dạy các từ mang thanh nhẹ sao cho hiệu quả còn là một vấn đề nan giải đối với người dạy và học tiếng Hán. Người dạy nên truyền đạt kiến thức như thế nào để học sinh có thể hiểu và nắm bắt được hết? Người học nên có hướng học ra sao để không lúng túng khi phát âm và sử dụng từ ngữ mang thanh nhẹ?
Để giúp người học có cái nhìn bao quát hơn về tính quan trọng và độ khó của các từ ngữ mang thanh nhẹ, chúng tôi quyết định “Khảo sát từ ngữ mang thanh nhẹ trong tiếng Hán hiện đại và ứng dụng trong giảng dạy tiếng Hán cho người Việt” làm đề tài nghiên cứu khoa học.

Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan
Nghiên cứu về từ mang thanh nhẹ:
Lương Trì Hoa (梁驰华, 2009) trong bài “Khảo sát sơ bộ về vai trò phân biệt từ loại và nghĩa của các từ mang thanh nhẹ trong Từ điển tiếng Hán hiện đại” đã phân tích chức năng phân biệt từ loại và nghĩa của từ mang thanh nhẹ. Vương Anh (王瑛, 2021) với “Phân loại và đặc điểm từ mang thanh nhẹ có hai cách đọc trong tiếng Hán – Lấy 150 từ có hai cách đọc trong Từ điển tiếng Hán hiện đại làm ví dụ” và Cốc Lộ Phương (谷露芳, 2021) trong bài “Nghiên cứu hiện tượng đọc sai các từ thanh nhẹ có hai cách đọc trong tiếng Hán hiện đại” tiếp tục nghiên cứu thêm về loại từ này trong Từ điển tiếng Hán hiện đại (quyển 7). Song do không nêu rõ tiêu chí thu thập dữ liệu, nên số lượng và loại từ được khảo sát trong hai nghiên cứu có sự khác biệt. Bên cạnh đó, các tác giả chỉ liệt kê danh sách từ mà không trình bày rõ ràng bảng thống kê kèm theo phiên âm, từ loại và ý nghĩa, gây khó khăn cho người học trong việc tham khảo và tra cứu.
Trong bài viết “Quan sát xu hướng giảm của thanh nhẹ qua nhiều từ vựng”, Hoàng Cảnh Thành (黄景成, 1958) là người đầu tiên chỉ ra xu hướng suy giảm trong việc sử dụng các từ mang thanh nhẹ. Sau đó, Lý Hoành Nhất (李宏一, 2008) đã tiến hành so sánh số lượng và cách đọc của các từ thanh nhẹ giữa hai phiên bản (quyển 3 và quyển 5) của Từ điển tiếng Hán hiện đại. Lư Hiểu Hà (卢晓霞, 2016) tiếp tục đi sâu nghiên cứu về xu hướng suy giảm này trong bài “Xu hướng phát triển của thanh nhẹ”. Lâm Dự Hoan và Lý Lệ Vân (林瑀欢、李丽云, 2017) đã tiến hành khảo sát việc xử lý các từ mang thanh nhẹ trong cuốn Từ điển tiếng Hán hiện đại (quyển 6). Các nghiên cứu nêu trên đều chỉ ra số lượng từ mang thanh nhẹ trong tiếng Hán hiện đại đang dần giảm sút cũng như sự thay đổi về cách đọc.

Nghiên cứu về phát âm thanh nhẹ của người học đến từ nhiều quốc gia khác nhau:
Trong những năm gần đây, các tác giả chú ý nhiều hơn đến việc nghiên cứu vấn đề phát âm thanh nhẹ của người học đến từ các quốc gia: Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Phi, Thái Lan, Lào,… Một số nghiên cứu tiêu biểu có thể kể đến như: Lý Vĩ (李伟, 2020) với “Nghiên cứu thực nghiệm về việc tiếp thu từ mang thanh nhẹ trong tiếng Hán của du học sinh Hàn Quốc”; Nông Trình Lân (农程麟, 2020) với “Nghiên cứu việc phát âm từ mang thanh nhẹ song âm tiết của người học tiếng Hán tại Lào”; Lý Huệ Mẫn (李慧敏, 2020) với “Nghiên cứu thụ đắc từ mang thanh nhẹ trong tiếng Hán của du học sinh Indonesia”; Lý Thu Sương (李秋霜, 2021) với “Nghiên cứu so sánh thực nghiệm việc tiếp thu từ mang thanh nhẹ tiếng Hán của sinh viên Thái Lan trong các môi trường khác nhau”; Khương Nam Nam (姜楠楠, 2022) trong “Nghiên cứu ngữ âm học thực nghiệm về việc tiếp thu thanh nhẹ tiếng Hán của du học sinh châu Phi” đã phân tích phát âm từ thanh nhẹ của người học đến từ châu Phi từ góc độ ngữ âm học; Đồng Khả Hân (佟可馨, 2022) trong “Nghiên cứu âm học về việc thụ đắc thanh nhẹ tiếng Hán của du học sinh Pakistan” đã thảo luận các đặc trưng âm học trong phát âm thanh nhẹ của người học Pakistan; còn Tôn Gia Lệ (孙佳丽, 2024) trong “Nghiên cứu phát âm từ mang thanh nhẹ trong tiếng Hán của du học sinh Việt Nam” đã đi sâu nghiên cứu đặc điểm cũng như các khó khăn trong phát âm từ mang thanh nhẹ của người Việt. Những nghiên cứu này đã cung cấp nguồn dữ liệu thực nghiệm phong phú và là cơ sở cho việc tìm hiểu các vấn đề chung và riêng trong quá trình tiếp thu từ mang thanh nhẹ của người học tiếng Hán đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Các tác giả chủ yếu nghiên cứu thanh nhẹ khi người học phát âm từng từ một. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng khi giao tiếp người nói không dùng đơn lẻ các từ mang thanh nhẹ mà kết hợp chúng với nhiều từ khác để biểu đạt suy nghĩ, ý kiến của mình. Nếu chỉ nghiên cứu phát âm thanh nhẹ từng từ sẽ rất khó để tổng hợp hết các vấn đề xoay quanh việc phát âm và sử dụng từ mang thanh nhẹ còn tồn tại của người học.
Đặc biệt, bài viết của Tôn Gia Lệ (孙佳丽, 2024) “Nghiên cứu phát âm từ mang thanh nhẹ trong tiếng Hán của du học sinh Việt Nam” và của Trương Trì, Hồ Ninh Tuyên, Trương Tấn Tùng (张弛、胡宁萱、张劲松, 2021) “Vấn đề phát âm thanh nhẹ trong tiếng Hán của người học đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Kazakhstan và Việt Nam” đều đề cập đến việc tiếp thu từ mang thanh nhẹ của sinh viên Việt Nam. Trong đó, Trương Trì và cộng sự (2021) thông qua thực nghiệm bài nghe phân biệt và thực nghiệm âm học, đã so sánh phát âm thanh nhẹ của sinh viên Việt Nam với sinh viên Nhật Bản, Hàn Quốc và Kazakhstan, phát hiện điểm khó chủ yếu trong việc tiếp thu thanh nhẹ của người học là không thể thực hiện chính xác sự biến đổi âm tiết đứng trước thanh nhẹ. Về âm cao, sinh viên Kazakhstan mắc lỗi phát âm nghiêm trọng nhất, họ chịu ảnh hưởng mạnh từ tiếng mẹ đẻ, và ít nhạy cảm với biến đổi âm cao ở cấp độ từ vựng hơn so với người học Nhật, Hàn và Việt. Về âm dài, người học ở các nước đều có khuynh hướng kéo dài âm tiết thanh nhẹ nếu nó đứng sau thanh 4. Tuy nhiên, nghiên cứu này trong phần thực nghiệm âm học chỉ phân tích âm dài và âm cao của thanh nhẹ, chưa đi sâu vào sự thay đổi về cường độ và âm sắc, đồng thời cũng chưa làm rõ mối liên hệ giữa kết quả thực nghiệm nghe và thực nghiệm âm học, điều này phần nào ảnh hưởng đến tính toàn diện và chiều sâu của nghiên cứu.

Nghiên cứu về giảng dạy từ mang thanh nhẹ:
Việc giảng dạy từ mang thanh nhẹ cũng là một chủ đề nghiên cứu nổi bật hiện nay trong lĩnh vực Hán ngữ, thu hút sự quan tâm của nhiều học giả. Ví dụ, Trương Yến Lai (张燕来, 2009) với bài viết “Khảo luận về việc giảng dạy thanh nhẹ trong giảng dạy tiếng Hán cho người nước ngoài”, Mã Hiểu Linh (马晓玲, 2010) với “Làm thế nào để giải quyết vấn đề từ mang thanh nhẹ trong giảng dạy tiếng Hán”, Hàn Lệ Đan (韩丽丹, 2016) với “Bàn về việc giảng dạy từ thanh nhẹ trong giảng dạy tiếng Hán cho người nước ngoài”, Vương Vận Giai (王韫佳, 2016) với “Một số ý kiến về chuẩn hóa và giảng dạy thanh nhẹ”, Tăng Quảng Dục (曾广煜, 2018) với “Vấn đề chú âm cho từ thanh nhẹ trong giáo trình Hán ngữ quốc tế” và Liêm Khiết (廉洁, 2019) với “Bàn luận về việc giảng dạy từ thanh nhẹ trong giáo dục Hán ngữ quốc tế” đều đề cập sâu sắc đến chủ đề này. Nhìn chung các nhà nghiên cứu cho rằng trong quá trình giảng dạy cần đặc biệt chú trọng đến những từ thanh nhẹ bắt buộc đọc có tần suất sử dụng cao trong sinh hoạt hàng ngày, đồng thời kết hợp với chức năng ngữ pháp của chúng và các phụ tố có liên quan đến thanh nhẹ để tiến hành giảng dạy có hệ thống, nhằm nâng cao khả năng tiếp thu từ thanh nhẹ của người học.

Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu nhằm mục đích giúp giáo viên nâng cao hiệu quả giảng dạy từ ngữ mang thanh nhẹ; giúp học sinh phân biệt chính xác từ ngữ mang thanh nhẹ và cung cấp cho người học ngữ liệu tham khảo phục vụ cho việc học và nâng cao năng lực tiếng Trung.