Ảnh hưởng của các loại chú thích khác nhau tới việc tiếp thu từ vựng tiếng Nhật ngẫu nhiên thông qua hoạt động đọc hiểu. 異なるタイプの注釈が第二言語としての付随的語彙習得に及ほす影響 :読解文を通して

Trang chủ / Ngân hàng ý tưởng

Tổng quan
Nhu cầu thực tiễn
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng phát triển toàn diện, tạo điều kiện thúc đẩy hợp tác giáo dục và giao lưu học thuật. Tiếng Nhật hiện là ngoại ngữ phổ biến thứ hai tại Việt Nam sau tiếng Anh (Q&Me, 2021), với hơn 169.000 người học (Japan Foundation, 2021). Tại Trường Đại học Ngoại ngữ – ĐHQGHN, việc giảng dạy tiếng Nhật ngày càng chú trọng đến năng lực sử dụng ngôn ngữ trong thực tế, đặc biệt là từ vựng – yếu tố then chốt để phát triển các kỹ năng ngôn ngữ khác (Nation, 2001). Tuy nhiên, việc tiếp thu từ vựng ngẫu nhiên trong quá trình đọc vẫn là thách thức lớn, khi người học thường bỏ qua từ mới nếu không có sự hỗ trợ (Hulstijn, 1992; Knight, 1994). Chú thích từ vựng trong văn bản đã được chứng minh có thể hỗ trợ học từ hiệu quả (Nagata, 1999; Ko, 2005; Karimvand, 2019). Tuy vậy, các nghiên cứu này lại chủ yếu xoay quanh đối tượng là người học tiếng Anh. Tại Việt Nam, nghiên cứu thực nghiệm về hiệu quả của các loại chú thích trong việc học tiếng Nhật cũng vẫn còn hạn chế.

Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan
Khái niệm “Tiếp thu từ vựng ngẫu nhiên – Incidental Vocabulary Acquisition” lần đầu tiên được đề xuất vào năm 1985 bởi Nagy, Herman and Anderson khi họ nhận thấy rằng trẻ em trong độ tuổi đi học dường như tăng vốn từ vựng tiếng mẹ đẻ của mình lên hàng nghìn từ mỗi năm (Nagy et al., 1985). Sau đó họ đã tiến hành một nghiên cứu thực nghiệm, kết quả cho thấy việc học ngẫu nhiên từ ngữ cảnh chiếm một tỷ lệ đáng kể trong sự tăng trưởng vốn từ vựng diễn ra trong những năm trẻ em tới trường. Kể từ lần đầu tiên xuất hiện trong nghiên cứu của Nagy và cộng sự (Nagy et al., 1985), đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu xoay quanh việc tiếp thu từ vựng ngẫu nhiên. Trong đó có không ít đề tài chứng minh tính tích cực của việc tiếp thu từ vựng ngẫu nhiên như: góp phần tăng vốn từ vựng của người học một cách tự nhiên và lâu dài (Pitts et al., 1989; Huckin & Coady, 1999); giúp người học rèn luyện khả năng sử dụng ngữ cảnh và manh mối từ văn bản để đoán nghĩa, từ đó phát triển kỹ năng đọc hiệu quả hơn (Fraser, 1999; Paribakht & Wesche, 1999); thúc đẩy sự phát triển của các khả năng ngôn ngữ (Krashen, 1989; Ellis, 1995). Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích, phương pháp tiếp thu từ vựng ngẫu nhiên cũng tồn tại một số vấn đề như hiểu sai ngữ cảnh, đoán sai ý nghĩa của từ… Nhiều nghiên cứu cũng đã được các nhà nghiên cứu thực hiện để thúc đẩy hiệu quả của việc tiếp thu từ vựng ngẫu nhiên thông qua quá trình đọc hiểu. Có nghiên cứu so sánh hai nhóm người đọc văn bản có và không có từ điển như (Knight, 1994) (Luppescu & Day, 1993) hay nghiên cứu về từ điển điện tử hỗ trợ khi đọc văn bản số của (Hill & Laufer, 2003) đã được thực hiện và đều chứng minh rằng từ điển hỗ trợ đáng kể trong việc hiểu ý nghĩa hợp với ngữ cảnh và học từ vựng ngẫu nhiên. Dù vậy, từ điển cũng chưa phải là cách hữu ích nhất bởi nó tốn thời gian và làm gián đoạn quá trình đọc hiểu (Carter & McCarthy, 1988), đồng thời Hulstijn và cộng sự cũng khẳng định việc sử dụng chú thích sẽ hiệu quả hơn so với sử dụng từ điển khi đọc hiểu (Hulstijn et al., 1996). Chú thích cung cấp một giải thích ngắn gọn về nghĩa của từ, giúp học viên hiểu từ vựng mới một cách dễ dàng hơn mà không gián đoạn quá trình đọc. Có nhiều đề tài đã chứng minh hiệu quả của chú thích trong việc đọc hiểu và tiếp thu từ vựng ngẫu nhiên, nên câu hỏi nghiên cứu của các đề tài dần chuyển từ “chú thích có tác động tích cực tới quá trình tiếp thu từ vựng ngẫu nhiên hay không?” sang “Loại chú thích nào hiệu quả hơn trong việc tiếp thu từ vựng ngẫu nhiên?”. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu về việc chú thích đơn hay chú thích trắc nghiệm hiệu quả hơn cũng chưa thể đi tới kết luận thống nhất. Có nghiên cứu cho kết quả là chú thích đơn hiệu quả hơn chú thích trắc nghiệm (Yoshii, 2013), có nghiên cứu lại chỉ ra chú thích trắc nghiệm hiệu quả hơn chú thích đơn (Farvardin & Biria, 2012; Komuro, 2020; Nagata, 1999). Cũng có những nghiên cứu nói rằng không có sự khác biệt đáng kể. (Miyasako, 2002; Watanabe, 1997). Và trong các nghiên cứu này, ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ (L2) của người tham gia đều là tiếng Anh, các công trình nghiên cứu hiệu quả của hai loại chú thích này đối với việc tiếp thu từ vựng tiếng Nhật ngẫu nhiên vẫn còn rất hạn chế.

Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm cho lĩnh vực giảng dạy tiếng Nhật như một ngoại ngữ tại Việt Nam, đặc biệt là trong mảng học từ vựng qua đọc hiểu. Trong bối cảnh hiện nay, số lượng nghiên cứu tại Việt Nam về hiệu quả của các loại chú thích từ vựng đối với việc tiếp thu từ vựng ngẫu nhiên của người học tiếng Nhật còn tương đối hạn chế. Vì vậy, kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần làm sáng tỏ vai trò và mức độ ảnh hưởng của từng loại chú thích trong quá trình học từ vựng, đồng thời củng cố cơ sở khoa học cho việc ứng dụng chú thích trong thực tiễn giảng dạy. Ngoài ra, từ kết quả thực nghiệm, nghiên cứu cũng hướng đến việc đề xuất những cách thiết kế tài liệu học tập hiệu quả hơn. Thông qua việc phân tích mức độ ghi nhớ và khả năng vận dụng từ vựng của người học dưới ảnh hưởng của từng loại chú thích, đề tài có thể đưa ra các khuyến nghị cụ thể về cách trình bày chú thích trong tài liệu đọc, phù hợp với năng lực và nhu cầu của sinh viên Việt Nam. Những đề xuất này không chỉ hỗ trợ giáo viên trong việc biên soạn giáo trình mà còn góp phần nâng cao hiệu quả tự học và phát triển vốn từ vựng cho người học trong môi trường học tập hiện đại, lấy người học làm trung tâm.