A study on translation strategies of proper names in four bilingual volumes (“Rodrick Rules”, “Dog Days”, “The Ugly Truth” and “Cabin Fever” of Diary of a Wimpy Kid series. (Nghiên cứu về chiến lược dịch tên riêng trong bốn phần sách song ngữ (“Luật của Rodrick”, “Mùa hè tuyệt vời”, “Sự thật phũ phàng” và “Mắc kẹt”) thuộc sê-ri truyện “Nhật ký chú bé nhút nhát”).

Trang chủ / Ngân hàng ý tưởng

Tổng quan
Nhu cầu thực tiễn
Lĩnh vực nghiên cứu chiến lược dịch thuật cho tên riêng liên tục trở thành một trong những trụ cột chính và thu hút được nhiều sự chú ý của các nghiên cứu dịch thuật văn học nói chung. Tuy nhiên, dịch thuật tên riêng được coi là một trong những trở ngại phức tạp nhất trong dịch thuật văn học xuất phát từ hai vấn đề chính: không có lý thuyết cụ thể nào về sự tôn trọng tên nguyên tác trong dịch thuật cũng như các xu hướng hợp lệ đương thời. Do đó, sự mất phương hướng trong việc tiến hành chuyển ngữ bắt nguồn từ các quan điểm khác nhau về ý nghĩa của tên riêng (Rodríguez và Marta, 2003).
Oittinen (2000) cũng nhấn mạnh tuổi thơ của biên dịch viên đóng vai trò quan trọng trong quá trình dịch thuật văn học thiếu nhi và bà tin rằng nếu dịch thuật viên muốn chạm đến tâm hồn trẻ thơ thông qua văn học, họ phải tự mình trải nghiệm nền văn hóa của chính những đứa trẻ đó, nắm bắt toàn bộ khái niệm về tuổi thơ và sự tồn tại của trẻ em cũng như bản ngã trẻ thơ bên trong chính bản thân người dịch. Bà cũng tuyên bố rằng việc chuyển ngữ văn học thiếu nhi là một nỗ lực quan trọng khi xét đến quy mô của độc giả trẻ tuổi
được ví như tài sản quốc gia quan trọng. Từ đó, do khoảng cách văn hóa giữa các quốc gia, nhiệm vụ biên dịch văn học đòi hỏi nhiều yếu tố hơn không chỉ kiến thức chuyên môn, điều này dẫn đến một dấu hỏi lớn về việc liệu các yếu tố văn hóa đặc trưng như tên riêng có nên được chuyển ngữ hay không. Saeideh (2012) cho rằng cùng một tài liệu nhưng với đối tượng độc giả khác nhau thì có thể cần xử lý tên riêng dựa theo từng trường hợp và ngữ cảnh vì trong văn học, người dịch phải xác định những tên riêng đó là tên gọi thông thường hay tên gọi được sáng tạo ra. Do đó, quá trình ra quyết định hoàn toàn dựa trên ý định của người dịch là diễn giải hay để nguyên tên riêng và đây cũng là một nhiệm
vụ phức tạp đòi hỏi biên dịch viên phải cân nhắc kỹ lưỡng trong quá trình chuyển ngữ các tên gọi văn học này.
Với nhu cầu tiêu thụ văn học nước ngoài ngày càng tăng, sách song ngữ ngày càng phổ biến trên toàn thế giới, ngay cả ở Việt Nam, từ tác phẩm kinh điển đến văn học hiện đại. Một số tác phẩm văn học nổi tiếng đặt ra nhiều thách thức trong việc dịch tên riêng được biên tập song ngữ như một nguồn học tiếng Anh cho trẻ em như “Harry Potter”, “Hoàng tử bé”, “Nhật ký chú bé nhút nhát”,… Lý do những tác phẩm được đề cập có quá trình diễn giải tên riêng gặp trở ngại xuất phát từ thực tế các tác phẩm này chứa đầy các “thuật
ngữ” tưởng tượng và mang đặc thù văn hóa liên quan đến phép thuật, thế giới kỳ ảo, tên địa danh, tên món ăn hoặc thậm chí là biệt danh. Trong khi Harry Potter và Hoàng tử bé nhận được rất nhiều sự quan tâm từ các nhà nghiên cứu Việt Nam về mảng nghiên cứu dịch thuật, Nhật ký chú bé nhút nhát có vẻ “không hấp dẫn” trong mắt các nhà nghiên cứu dịch thuật nước nhưng lại phổ biến hơn trong các nghiên cứu nước ngoài về lĩnh vực chiến lược dịch tên riêng. Trên quan điểm đó, bài nghiên cứu đặt mục tiêu phân tích vấn đề trên trong bối cảnh Việt Nam.
“Nhật ký chú bé nhút nhát” là loạt truyện thiếu nhi gồm mười tám phần do Jef Kinney, một tiểu thuyết gia và họa sĩ truyện tranh người Mỹ, chấp bút. Bộ truyện kể về cuộc sống hàng ngày của một cậu học sinh trung học tên là Greg Hef ey với ngôi thứ nhất dưới dạng một cuốm nhật ký. Tại Việt Nam, bộ truyện được xuất bản đầy đủ dưới dạng bản dịch tiếng Việt và bản song ngữ Anh – Việt do Giang Vũ, Tommy Trần, Vân Khánh, Quý Dương, Diệu Linh và Trần Hoài đồng biên dịch.
Do hạn chế về mặt thời gian và độ dài của nghiên cứu, tác giả đã quyết định nghiên cứu tập trung các chiến lược dịch tên riêng của bốn phần song ngữ của bộ truyện (“Rodrick Rules”, “Dog Days”, “The Ugly Truth” và “Cabin Fever”) do Giang Vũ và Tommy Trần chuyển ngữ. Dữ liệu tên riêng được phân thành ba loại: tên người, tên sự vật và thuật ngữ địa lý.

Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan
Tài liệu nghiên cứu liên quan
Tác giả đã xem xét các nghiên cứu trước đây có liên quan trực tiếp đến đề tài này trong mục: Tổng quan tài liệu nghiên cứu liên quan. Theo đó, tác giả đã phát hiện ra một số nghiên cứu trước đó có cùng chủ đề nhưng đối tượng nghiên cứu khác nhau. Các kết quả nghiên cứu của nghiên cứu đó được tổng hợp dưới đây.

Ke Huang (2014): Translating for Children: Cultural Strategies and Readers Responses (tạm dịch: Dịch thuật sách thiếu nhi: Chiến lược văn hóa và phản hồi của độc giả).
Nghiên cứu của Huang được coi là nguồn cảm hứng chính cho chủ đề của nghiên cứu. Nghiên cứu của Ke Huang xem xét khía cạnh văn hóa của việc dịch văn học thiếu nhi và văn học tuổi teen, và được đóng khung trong các lý thuyết về phản ứng của người đọc, đối thoại Baktinian, nghiên cứu văn hóa và nghiên cứu dịch thuật. Mục tiêu chính trong nghiên cứu của ông là tìm hiểu cách các chiến lược dịch thuật ảnh hưởng đến khả năng đọc hiểu của người đọc về các ám chỉ đặc biệt về mặt văn hóa bằng cách phân tích phản ứng của họ với tư cách là người đọc văn bản nguồn và người đọc văn bản đích. Do đó,
câu hỏi chính thúc đẩy nghiên cứu của ông là “Thế nào là bản dịch tốt của một cuốn sách thiếu nhi?”. Hay nói cách khác, “Có cần phải sửa đổi không? Nếu có, thì cần phải thay đổi những gì và ở mức độ nào khi dịch cho độc giả trẻ tuổi, và những sửa đổi đó ảnh hưởng đến khả năng đọc hiểu của người đọc như thế nào?”. Theo dữ liệu được phân tích cho nghiên cứu, đây là những vấn đề khó khăn và phức tạp để giải quyết.
Huang cho rằng việc trẻ em không thể hiểu được nền văn hóa nước ngoài được mô tả trong sách thiếu nhi thường là do thiếu sự tiếp xúc với nền văn hóa đó chứ không phải do thiếu năng khiếu. Cho đến nay, không có một lý thuyết nào chi phối tất cả các quá trình dịch thuật cho văn học thiếu nhi. Mặt khác, việc tạo ra một lý thuyết có thể áp dụng rộng rãi để tích hợp nhiều hành vi và ý tưởng trái ngược nhau thậm chí có thể không khả thi.
Một trong những vấn đề trọng tâm cần được giải quyết trong nghiên cứu của ông là nghiên cứu về sự thay đổi văn hóa và ngôn ngữ trong dịch thuật. Để tiến hành nghiên cứu, Ke Huang đã chọn ba cuốn sách là “The Wednesday Wars”, “Diary of a Wimpy Kid” và “The Diary of Ma Yan” làm mẫu nghiên cứu để phân tích nội dung về sự thay đổi văn hóa và ngôn ngữ trong dịch thuật. Đáng chú ý hơn, trong phần có tiêu đề “Dịch tên riêng”
(Translating (Proper) Names) trong Chương 3: Phân tích nội dung về sự thay đổi văn hóa và ngôn ngữ trong dịch thuật, Ke Huang đã nêu rằng khi dịch tên riêng hoặc tên của thực phẩm, địa danh và tên người, người ta thường áp dụng hai cách tiếp cận— nội hóa (domesticating) và ngoại hóa (foreignizing). Đặc biệt khi xử lý tên riêng, trước đây có thói quen phổ biến trong số các dịch giả là điều chỉnh tên cho phù hợp với nền văn hóa đích.
Sau đó, ông phân loại tên thành ba loại tiêu biểu: tên thực phẩm, tên người và các tên khác. Thay vì phân tích tên riêng của mỗi cuốn sách dựa trên từng loại, ông quyết định chọn những tên nổi bật và tiêu biểu nhất từ tất cả các tác phẩm để kiểm tra kỹ lưỡng trong từng phân loại. Đối với loại “Dịch tên thực phẩm” (Translating Food Names), ông tập trung vào ba chiến lược dịch chính: khái quát hóa tên thực phẩm (generalization of food names), thay đổi cho mục đích tu từ (alteration for rhetorical purpose) và dịch nghĩa đen tên thực phẩm (literal translation of food names). Trong khi đó, ông chỉ tập trung vào hai chiến lược dịch thuật cho phân loại “Dịch tên người” (Translating Personal Names): giữ nguyên tên người (retention of personal names) và thay đổi cho mục đích tu từ (alteration for rhetorical purpose). Cuối cùng, ông đề cập đến ba chiến lược – bổ sung để cung cấp thông tin ngoài văn bản (addition to provide extratextual information), điều chỉnh để sao chép trải nghiệm đọc văn bản nguồn (adaptation to replicate the ST reading experience) và cuối cùng là giống hình thức và truyền đạt ý nghĩa (resembling form and conveying meaning) – được áp dụng để dịch tên trong loại “Các tên khác” (Other Names). Tất cả các ví dụ đều được phân tích tỉ mỉ trong mối quan hệ giữa các yếu tố văn hóa và ngôn ngữ để làm rõ quyết định của người dịch khi sử dụng các chiến lược dịch thuật cho các trường hợp cụ thể để truyền tải các thông điệp có chủ đích hoặc bị ẩn.
Cách các tên riêng trong mỗi cuốn sách được xem xét đã thúc đẩy nhà nghiên cứu đào sâu hơn vào lĩnh vực nghiên cứu dịch tên riêng. Do giới hạn thời gian và độ dài của nghiên cứu, bốn phiên bản song ngữ từ bộ truyện “Nhật ký chú bé nhút nhát” đã trở thành lựa chọn tối ưu nhất khi xem xét đến kiến thức của tác giả và tính khả dụng của sách bìa cứng.

Nguyễn Minh Thu (2023): Strategies applied in English – Vietnamese translation of proper names in volume I of “The Lord of the Rings” series (tạm dịch: Chiến lược dịch thuật tên riêng Anh – Việt trong tập I của bộ truyện “Chúa tể những chiếc nhẫn”).
Nghiên cứu của Nguyễn Minh Thu được đề cập đến vì nó đóng vai trò là tài liệu tham khảo thiết yếu nhất cho việc phân loại tên riêng và khuôn khổ lý thuyết được đề xuất của nghiên cứu này. Qúa trình nghiên cứu của cô tập trung vào bản dịch tiếng Việt của Tập 1: The Fellowship of the Ring từ tiểu thuyết “Chúa tể những chiếc nhẫn”, so sánh với bản dịch tiếng Anh để xác định các cách tiếp cận của Nguyễn Thị Thu Yến và Đặng Trần Việt trong việc dịch tên riêng. Nghiên cứu sử dụng một phương pháp tiếp cận có hệ thống để kiểm tra các chiến lược dịch thuật được sử dụng để miêu tả tên riêng nhằm hoàn thành
các mục tiêu nghiên cứu. Nguyễn chia 522 danh từ riêng trong cuốn sách thành ba loại: tên đồ họa (graphical names), tên người (human names) và tên đồ vật (names of things), dựa trên cơ sở đề xuất của Newmark (1988) liên quan đến định nghĩa về tên riêng đã thảo luận trước đó. Nghiên cứu của Nguyễn đã tham khảo một số khuôn khổ lý thuyết do Davies (2003), Fernandes (2006) và Van Coillie (2014) phát triển khi nghiên cứu về tên gọi. Sau khi xem xét và cân nhắc tính phù hợp của từng khuôn khổ, Nguyễn đã xây dựng nên một khuôn khổ lý thuyết bao gồm mười lăm chiến lược dịch thuật: (1) diễn dịch (rendition), (2) phiên âm (transcription), (3) sao chép (copy), (4) thay thế (substitution), (5) tái tạo (recreation), (6) xóa (deletion), (7) bổ sung (addition), (8) chuyển vị (transposition), (9) thay thế ngữ âm (phonological replacement), (10) tính quy ước (conventionality), (11) toàn cầu hóa (globalization), (12) dịch tên có hàm ý cụ thể (translation of names with a particular connotation), (13) thay thế bằng tên có hàm ý khác hoặc bổ sung (replacement by a name with another or additional connotation), (14) thay thế bằng tên được biết đến rộng rãi hơn từ nền văn hóa nguồn hoặc tên được biết đến trên phạm vi quốc tế có cùng chức năng (replacement by a more widely known name from the source culture or an internationally known name with the same function) và (15) kết hợp nhiều chiến lược (combination of multiple strategies).
Tuy nhiên, phát hiện của nghiên cứu trên là 7 trong số 15 chiến lược dịch thuật được đề xuất sử dụng trong quá trình dịch thuật đã được xác định, bao gồm (1) diễn dịch (rendition); (2) sao chép (copy); (3) tái tạo (recreation); (4) dịch tên có hàm ý cụ thể (translation of names with a particular connotation); (5) thay thế bằng tên có hàm ý khác hoặc hàm ý bổ sung (replacement by a name with another or additional connotation); (6) chuyển vị (transposition) và (7) kết hợp nhiều chiến lược (combination of mutiple strategies). Do đó, tác giả đã quyết định không áp dụng phần lớn khuôn khổ lý thuyết của Van Coillie (2014) do tính ứng dụng thấp của nó.
Hơn nữa, theo tần suất các chiến lược dịch thuật chủ yếu được sử dụng trong quá trình dịch tên riêng: sao chép (copy) với 34,9%, kết hợp nhiều chiến lược (combination of mutiple strategies) với 33,9%, diễn dịch (rendition) với 16,3% và dịch tên có hàm ý cụ thể (translation of names with a particular connotation) với 10%, Nguyễn đã đi đến kết luận rằng các dịch giả có cam kết mạnh mẽ trong việc duy trì tinh thần và ý nghĩa của tên riêng được sử dụng trong ngôn ngữ nguồn gốc đồng thời đảm bảo rằng sản phẩm cuối cùng có thể đọc được và dễ hiểu đối với đối tượng độc giả của ngôn ngữ đích.
Nguyễn khẳng định vào cuối nghiên cứu của mình rằng việc dịch tên riêng là một nhiệm vụ phức tạp đòi hỏi một cách tiếp cận tinh vi, giống như việc dịch các biểu thức ngôn ngữ khác, và nó đòi hỏi phải cân nhắc cẩn thận về bối cảnh sử dụng. Do đó, cô đề xuất rằng khi dịch một văn bản, người dịch phải thận trọng và cân nhắc nhiều yếu tố, bao gồm các nét văn hóa đặc trưng, các quy ước văn học và ý định của tác giả, để duy trì ý nghĩa ban đầu của tác phẩm đồng thời đảm bảo bản dịch dễ hiểu đối với đối tượng độc giả của ngôn
ngữ đích. Khi tiến hành quy trình dịch thuật như vậy, dịch gia có thể cung cấp bản dịch vừa dễ hiểu đối với đối tượng độc giả mục tiêu vừa trung thành với văn bản gốc.
Nhìn chung, Nguyễn đã thành công tạo ra một quy trình phân tích chi tiết và một khuôn khổ thực hành để dịch tên riêng với phân loại tên hợp lý rõ ràng, đóng góp to lớn như một tài liệu tham khảo cho nghiên cứu này. Hơn nữa, nghiên cứu của Nguyễn cũng đóng vai trò là bước đệm cho các nghiên cứu sâu hơn và những phát hiện mới.
Đánh giá các nghiên cứu có liên quan khác trong bối cảnh quốc tế và Việt Nam
Như Ke Huang (2014) đã nhận định trước đây, dịch thuật đóng vai trò quan trọng trong văn học thiếu nhi. Dịch tên riêng là một trong những thách thức mà tất cả các biên dịch viên phải đối mặt trong mọi văn bản, bất kể vấn đề hay chủ đề mà họ đang xử lý, trong các tác phẩm như văn học thiếu nhi (Huang, 2014). Tên riêng có thể truyền tải nhiều ấn tượng sai lệch, chẳng hạn như “chỉ ra giới tính, độ tuổi, nguồn gốc địa lý, lịch sử, ý nghĩa cụ thể, tính vui tươi của ngôn ngữ và hàm ý văn hóa” (Nouh, 2022). Như Nord (2003) đã lưu ý, “Tên riêng có thể không mang tính mô tả, nhưng rõ ràng chúng không phải là
không mang tính thông tin”, do đó, không có tên riêng nào, dù tinh tế đến đâu, lại vô nghĩa trong các tác phẩm hư cấu. Do đó, trách nhiệm của biên dịch viên là truyền đạt những ý nghĩa này đến đối tượng độc giả của ngôn ngữ đích. Tóm lại, không có hướng dẫn chung nào được đặt ra để xử lý tên riêng và biên dịch viên có thể tự do sử dụng nhiều chiến lược khác nhau khi diễn đạt chúng.
Nhìn chung, các nghiên cứu này cho thấy rằng dịch tên riêng là một nhiệm vụ phức tạp đòi hỏi phải cân bằng cẩn thận giữa việc duy trì ý nghĩa gốc, tôn trọng các quy ước ngôn ngữ và văn hóa, và đảm bảo độc giả ngôn ngữ đích hiểu được. Mặc dù tôn tại một số chiến lược, nhưng không có chiến lược nào trong số chúng có thể nắm bắt đầy đủ sự phức tạp và chiều rộng của ý nghĩa mà tên riêng có trong ngôn ngữ nguồn. Những phát hiện này làm sáng tỏ nỗ lực liên tục nhằm thu hẹp khoảng cách giữa ngôn ngữ và văn hóa trong lĩnh vực dịch thuật tên riêng, đây là thông tin quan trọng đối với các biên dịch viên, nhà nghiên cứu và người thực hành khi lĩnh vực dịch thuật tiếp tục phát triển.

Khoảng trống nghiên cứu
Thật vậy, văn học thiếu nhi thường được công chúng nói chung mặc định là kém giá trị hơn văn học dành cho người lớn, và được các học giả coi là “kẻ ngoài cuộc” và “Cô bé Lọ Lem” của nghiên cứu văn học (Hunt, 1990; Shavit, 1994). Do thực tế văn học thiếu nhi bị coi là tầm thường, nên việc dịch văn học thiếu nhi thậm chí rơi vào tình trạng tệ hơn cho đến những năm 1960 và 1970, khi các nhà lý thuyết dịch thuật như E. Cary (1956) và G. Mounin (1967) công nhận văn học thiếu nhi là một thể loại riêng biệt. Khi nghiên cứu
các bài báo và ấn phẩm liên quan đến tên riêng và bản dịch của chúng, đặc biệt là những bài viết có phong cách ngôn ngữ thường nhật, người ta phát hiện ra rằng những tài liệu đó thực tế tập trung vào các ngôn ngữ khác hơn là tiếng Việt. Ngoài ra, bản dịch của “Nhật ký chú bé nhút nhát” đã nhận được rất nhiều tình cảm từ độc giả tiểu thuyết Việt Nam, đặc biệt là độc giả trẻ, tuy nhiên, có tương đối ít nghiên cứu về các chiến lược dịch thuật của tác phẩm, chưa nói đến các nghiên cứu cụ thể về dịch tên riêng ở Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu này sẽ xem xét kỹ lưỡng hơn các chiến lược dịch tên riêng trong các phiên
bản song ngữ của bốn tập trong bộ truyện.

Ý nghĩa khoa học
Bài nghiên cứu sau khi đã hoàn tất được kỳ vọng sẽ cung cấp những hiểu biết hữu ích cho sinh viên và biên dịch viên đang gặp khó khăn với rào cản chuyển ngữ tên riêng. Hơn nữa, nghiên cứu cũng có mục tiêu cung cấp một hệ thống chiến lược dịch thuật hợp lý và sáng tạo để diễn giải tên riêng trong văn bản nguồn theo cách thân thiện với văn hóa trong ngôn ngữ đích như một nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên và biên dịch viên.
Bên cạnh đó, nghiên cứu đã tạo ra khả năng thúc đẩy nghiên cứu sâu hơn về dịch tên riêng liên quan đến văn học thiếu nhi. Các nhà nghiên cứu có niềm đam mê với lĩnh vực này có thể đào sâu hơn vào khía cạnh dịch thuật trên hoặc tận dụng tối đa ấn phẩm này như một tài liệu tham khảo cho những khám phá hay phát hiện của họ.