“汉、越含“火”成语及其翻译研究 (Nghiên cứu thành ngữ có chữ “hoả”, “lửa” trong tiếng Hán, tiếng Việt và lưu ý khi dịch thuật)”

Trang chủ / Ngân hàng ý tưởng

Tổng quan 

Nhu cầu thực tiễn
Thành ngữ là những cụm từ được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chúng có cấu trúc cố định và diễn đạt ý nghĩa đầy đủ. Nghĩa của một thành ngữ có thể được suy ra trực tiếp từ nghĩa đen của các từ cấu thành, nhưng thông thường nó có nghĩa mở rộng. Do đó, nếu đọc theo nghĩa đen, người đọc sẽ khó hiểu được ý nghĩa của nó. Khi học thành ngữ, điều người học cần hơn cả là trí tưởng tượng để hiểu được ý nghĩa của chúng. Thành ngữ thường có ý nghĩa chi tiết hơn và có sắc thái biểu đạt sâu sắc hơn. Thành ngữ súc tích, rõ ràng, mang tính tượng trưng và biểu cảm, do đó có thể diễn đạt đầy đủ suy nghĩ và cảm xúc của người nói và tác giả.

Bài viết này chọn thành ngữ có chứa “lửa”, “hỏa” vì những lý do sau. Lửa là một trong những yếu tố chính của vũ trụ. Nó có thể phá hủy mọi thứ bạn sở hữu trong thời gian ngắn và cũng có thể biến những khu rừng lớn thành tro bụi. Lửa cũng là một vũ khí đáng sợ với sức hủy diệt gần như vô hạn, cướp đi nhiều sinh mạng mỗi năm hơn bất kỳ sức mạnh tự nhiên nào khác. Ngược lại, lửa mang lại cho con người rất nhiều sự trợ giúp trong cuộc sống. Lửa mang lại cho chúng ta ánh sáng và sự ấm áp. Lửa còn giúp nấu chín thức ăn, rèn kim loại, làm đồ gốm, nung gạch, vận hành nhà máy nhiệt điện… Tóm lại, lửa là một yếu tố nguy hiểm nhưng cũng là một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Đây thực sự là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong lịch sử loài người.

Đối với mỗi dân tộc, lửa không chỉ là tia sáng lóe lên mà ý nghĩa của nó phản ánh sâu sắc đời sống tôn giáo, đời sống thường nhật, đời sống sản xuất và đời sống tình cảm của con người. Là một yếu tố không thể tách rời trong cuộc sống con người từ thời xa xưa đến nay, lửa thể hiện nhiều ý nghĩa khác nhau.

Thành ngữ chứa “lửa”, “hoả” trong tiếng Hán và tiếng Việt không chỉ phản ánh nhiều đặc điểm của bản thân ngôn ngữ như phương pháp cấu trúc, chức năng ngữ pháp, phân loại… mà còn phản ánh những điểm tương đồng và khác biệt trong hai khái niệm văn hóa. “Lửa” và “hoả” không chỉ đơn thuần là ánh sáng phát ra từ một vật đang cháy mà còn mang nhiều ý nghĩa như tức giận, phát đạt, thịnh vượng, nhanh chóng….Vì vậy, khi sử dụng dễ gây nhầm lẫn, việc tìm hiểu ý nghĩa của thành ngữ sẽ giúp học sinh, sinh viên đang học tiếng Trung hiểu thêm về văn hoá, quan niệm, tư duy của người dân tại hai quốc gia và giúp học sinh, sinh viên sử dụng chính xác, hợp lý hơn.

Vậy Trung Quốc và Việt Nam có thói quen diễn đạt giống nhau khi sử dụng từ “lửa”, “hỏa” trong thành ngữ không? Chúng ta cần chú ý điều gì khi dịch thành ngữ có nguyên tố lửa?

Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan

Cho đến nay, nghiên cứu về thành ngữ đã khá rộng rãi ở cả Việt Nam và Trung Quốc, và các nghiên cứu đã cung cấp rất nhiều tài liệu tham khảo cho các học giả, đặt nền tảng để họ tiến hành nghiên cứu sâu hơn về thành ngữ Trung Quốc và Việt Nam.

Ở Trung Quốc, có rất nhiều nghiên cứu chung. Chẳng hạn như “Thành ngữ” của Mã Quốc Phàm (NXB Nhân dân Nội Mông, tái bản lần thứ 2 năm 1978), “Nghiên cứu thành ngữ Trung Quốc” của Thạch Thực (NXB Nhân dân Tứ Xuyên, 1979), “Giới thiệu vắn tắt về kiến ​​thức thành ngữ” của Hứa Triệu Bổn (NXB Bắc Kinh, 1980), “Tổng quan về thành ngữ” của Hướng Quảng Trung (NXB Nhân dân Hồ Bắc, 1982), “Thành ngữ Trung Quốc và văn hóa Trung Quốc” của Mặc Bồng Linh (NXB Giáo dục Giang Tô, 2001) và “Thành ngữ” của Lưu Kiệt Tú.

Các bài nghiên cứu về thành ngữ bao gồm “Cấu trúc và đặc điểm ngữ âm của thành ngữ” của An Liqing, “Thành ngữ và văn hóa Trung Quốc” của Li Danong và “Mối quan hệ văn hóa giữa tiếng Trung và văn hóa Trung Hoa” của Tang Lili. “Nghiên cứu về từ “lửa” bao gồm phân tích nhận thức về ẩn dụ và hoán dụ của “lửa” trong tiếng Trung” của Vương Mạnh Lan, nghiên cứu “Nhận thức về ẩn dụ và hoán dụ của “lửa” trong tiếng Trung” của Ngưu Giai Lệ, nghiên cứu của Trương Tĩnh Kha và Ai Hồng Quyên về “Sự phân bố nghĩa của từ “lửa” trong tiếng Trung hiện đại dựa trên cấu trúc vật lý”, và Phạm Thị Nhân, Hoàng Thị Văn An “Nghiên cứu từ ngữ chứa “Lửa” trong tiếng Hán hiện đại từ góc tri nhận”. Nghiên cứu về thành ngữ chứa “lửa” bao gồm Megawati, Lily Thamrin, Lusi, “Phân tích “nước” và “lửa” trong thành ngữ Trung Quốc và Indonesia”.

Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu về thành ngữ tiếng Việt, như “Về khái niệm thành ngữ tiếng Việt” của Nguyễn Thiện Giáp (1975), “Thành ngữ tiếng Việt” của Nguyễn Lực, Lương Văn Đang (1993), và “Thành ngữ học tiếng Việt” của Hoàng Văn Hành (2004).

Các công trình nghiên cứu so sánh thành ngữ Trung – Việt bao gồm: “Công trình nghiên cứu so sánh thành ngữ Hán” của Cai Xinjiao, công trình “Nghiên cứu So sánh điểm giống và khác nhau giữa thành ngữ Trung – Việt” của Lý Văn Hòa, công trình nghiên cứu “So sánh thành ngữ bốn chữ Trung – Việt” của Trần Anh Nguyệt, công trình nghiên cứu “So sánh thành ngữ bốn chữ Trung – Việt” của Nguyễn Phương Thảo và công trình nghiên cứu “So sánh thành ngữ bốn chữ Trung – Việt” của Nguyễn Thị Thu Hương.

Có tương đối ít nghiên cứu so sánh về thành ngữ chứa chữ “火”. Ngô Hoài Điệp (Wu Huaiye) “Nghiên cứu thành ngữ Trung Quốc chứa chữ “火” – So sánh với tiếng Việt” (Đại học Hà Nội, 2021).

Chen Yingu, Ji Guangli và Jia Dejiang (2011), “Về thành ngữ tiếng Trung có chữ “huo” và bản dịch của chúng từ góc độ lý thuyết nguyên mẫu”, Tạp chí Đại học Mẫu Đơn Giang, Bắc Kinh, Trung Quốc