“Những lỗi thường gặp do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ tới nhận thức về cách sử dụng ている và ていた của sinh viên năm 3, Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại Ngữ – Đại học Quốc gia Hà Nội (ベトナム人日本語 学習者に見られる母語からの移転による「ている」「ていた」 の誤用ー ハノイ国 家大学外国語大学・日本言語文化学部3年生を対象にー)”

Trang chủ / Ngân hàng ý tưởng

Tổng quan
Nhu cầu thực tiễn
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của mối quan hệ hợp tác Việt Nam – Nhật Bản, công tác học tập và giảng dạy tiếng Nhật tại Việt Nam ngày càng phát triển và được chú trọng hơn bao giờ hết. Các nội dung liên quan đến từ vựng, ngữ pháp,… của tiếng Nhật đang dần nhận được sự quan tâm và nghiên cứu một cách mở rộng và chuyên sâu. Đặc biệt, các nghiên cứu về cách sử dụng ている và ていた của tiếng Nhật cũng là một trong số những chủ đề được quan tâm và chú trọng.
Tuy nhiên, do sự khác biệt giữa tiếng Nhật và tiếng Việt về cách biểu hiện thời – thể, người học tiếng Nhật có tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt thường gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng đúng hai cấu trúc này. Tiếng Việt không có hình thái chia thời rõ ràng như tiếng Nhật mà sử dụng các phó từ như “đã”, “đang”, “sẽ” để biểu đạt ý nghĩa tương đương. Điều này dễ dẫn đến các lỗi sử dụng ている và ていた theo logic tiếng mẹ đẻ.
Từ lý do trên, tôi lựa chọn “Những lỗi thường gặp do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ tới nhận thức về cách sử dụng ている và ていた của sinh viên năm 3, Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại Ngữ – Đại học Quốc gia Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu.
Nghiên cứu này nhằm mục đích làm rõ các lỗi sai phổ biến và phân tích ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ trong quá trình sử dụng ている và ていた mà sinh viên thường mắc phải khi sử dụng tiếng Nhật. Từ đó, nghiên cứu sẽ đưa ra phân tích chi tiết nhằm hỗ trợ các giáo viên trong quá trình giảng dạy tiếng Nhật.

Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan
Trong nghiên cứu “Thời, thể và các phương tiện biểu hiện trong tiếng Việt “ của Trần Kim Phượng (2005), nhằm làm sáng tỏ những nghi vấn liên quan đến hai phạm trù thời và thể trong tiếng Việt, tác giả đã mô tả cách sử dụng của các phó từ biểu thời ý nghĩa của những phạm trù này. Mục tiêu của nghiên cứu là làm rõ cách thức tồn tại của thời và thể trong tiếng Việt, cũng như chúng được thể hiện qua những khía cạnh nào. Ngoài ra, nghiên cứu còn xem xét cả những phương thức diễn đạt được sử dụng trong trường hợp không có thời.
Trong tạp chí nghiên cứu Quốc tế của Đại học Kanda số 28, năm 2016 trong bài nghiên cứu có tiêu đề “日本人学生のためのベトナム語文法教育における諸問題” đã chỉ ra những sự khác biệt cơ bản về các thể có so sánh, đối chiếu của tiếng Việt và tiếng Nhật qua việc phân tích các văn bản Nhật – Việt.
Trong luận án nghiên cứu của Vũ Thúy Nga vào năm 2018 với tiêu đề “Thời trong tiếng Nhật và các biểu hiện tương đương trong tiếng Việt”, về cơ bản đã làm rõ những thói quen, nhầm lẫn chung của sinh viên Đại học Hà Nội khi sử dụng thời thể nói chung trong các văn bản viết khi dịch xuôi và dịch ngược. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn chỉ ra những lý do chính cho cách sử dụng thời thể đó.
Trong tạp chí Nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa khu vực số 27, năm 2021, trong nghiên cứu “日本語学習者コーパスに見られるテンス・アスペクトの習得:ベトナム語母語話者による誤用と母語の影響” của Phạm Thị Thanh Thảo đã làm sáng tỏ về sự khác biệt về cách sử dụng “Tei/ru” giữa người Nhật bản địa, người Việt, người Trung Quốc học tiếng Nhật trong chủ đề về dã ngoại và những ảnh hưởng của ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Việt lên người học ngoại ngữ.
Nghiên cứu có tiêu đề “中国語を母語とする日本語学習者による 「ている」「ていた」 の習得―習熟度・テンス・動詞タイプからの考察―” của Nishizaka Shouhei (2021) tập trung vào việc người học tiếng Nhật có tiếng mẹ đẻ là tiếng Trung Quốc tiếp thu cách sử dụng ている và ていた. Nghiên cứu chỉ ra rằng, đối với cách dùng “duy trì hành động” (動作の持続), người học có tỉ lệ trả lời đúng với ている cao hơn ていた. Ngược lại, với cách dùng “trạng thái kết quả” (結果の状態), tỷ lệ trả lời đúng khá thấp, bất kể ở trình độ nào. Nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng vì nó làm sáng tỏ quá trình người nói tiếng Trung – một ngôn ngữ không có thời (tense) – tiếp thu thể trong tiếng Nhật. Đồng thời, nó cũng chứng minh rằng đặc điểm kết hợp của từ chỉ thể trong tiếng mẹ đẻ ảnh hưởng đến mức độ khó khăn khi tiếp thu cách dùng “trạng thái kết quả”.

Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu này chủ yếu phân tích nhận thức và cách sử dụng ている và ていた của sinh viên năm 3, Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ – Đại học Quốc gia Hà Nội, đồng thời xem xét ảnh hưởng của ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Việt đến việc sử dụng chúng. Bên cạnh đó, việc đối chiếu với các phó từ chỉ thời trong tiếng Việt như “đã”, “đang” và “sẽ” nhằm làm rõ mức độ và biểu hiện của ảnh hưởng của ngôn ngữ mẹ đẻ lên sinh viên. Kết quả phân tích lỗi sử dụng ている và ていた trong tiếng Nhật sẽ được sử dụng làm cơ sở để đề xuất hướng cải thiện trong việc giảng dạy và học tập cho người học tiếng Nhật là người Việt.