Trải nghiệm của sinh viên mù trong môi trường giáo dục hòa nhập: Quang cảnh của sự quan tâm và chăm sóc

Trang chủ / Ngân hàng ý tưởng

1. Nhu cầu thực tiễn 

Giáo dục hòa nhập đang được ủng hộ rộng rãi trên toàn cầu. Triết lý về bình đẳng  và hòa nhập của nó được công nhận và ủng hộ bởi chính phủ Việt Nam. Hòa  nhập đã được thêm vào Mục tiêu Phát triển Bền vững số 4 của Liên Hợp Quốc – trong đó giáo dục chất lượng công bằng và hòa nhập, cũng như cơ hội học tập  suốt đời, được đảm bảo và thúc đẩy cho mọi người. Việt Nam, cùng với xu hướng  toàn cầu, đã có những nỗ lực đảm bảo cơ hội giáo dục bình đẳng cho người  khuyết tật thông qua giáo dục hòa nhập (Nguyễn, X.H., 2015). Trên thực tế, chính  phủ Việt Nam khuyến khích thực hiện giáo dục hòa nhập và coi đây là hình thức  giáo dục chính cho người khuyết tật (Quốc hội, 2010, Điều 28.2). Các biện pháp  lập pháp yêu cầu tất cả các cơ sở giáo dục phải tạo điều kiện phù hợp cho việc  dạy và học cho người khuyết tật, bao gồm chính sách nhập học không phân biệt  đối xử và nâng cấp cơ sở vật chất để đảm bảo tính tiếp cận cho người khuyết tật  (Quốc hội, 2010). 

Tuy nhiên, mặc dù có các chính sách nhằm thúc đẩy giáo dục hòa nhập, người  khiếm thị ở Việt Nam vẫn gặp phải những thách thức đáng kể trong việc tiếp cận  giáo dục, đặc biệt liên quan đến các phương tiện học tập phi thị giác, tiếp cận học  tập và di chuyển, cũng như tìm kiếm việc làm. Theo hội thảo “Hỗ trợ Người  khiếm thị trong Giáo dục và Đào tạo Nghề nghiệp” do Khoa Công tác xã hội,  Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức,  tỷ lệ học sinh khiếm thị đi học trên toàn quốc chỉ chiếm 7%, trong khi tỷ lệ người  khiếm thị được đào tạo nghề và tìm được việc làm chỉ khoảng 15% (An, 2014).  Học sinh khiếm thị phải đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến phương tiện học  tập trong môi trường trường học như hạn chế về di chuyển, không tiếp cận được  chương trình giảng dạy và thiếu kiến thức về hòa nhập của học sinh có nhu cầu  đặc biệt trong số các giáo viên. Triển vọng nghề nghiệp cho người khiếm thị ở  Việt Nam cũng bị hạn chế, thường chỉ giới hạn trong một số công việc cụ thể  như nhân viên massage, nhạc sĩ hoặc thợ thủ công (An, 2014). Hơn nữa, mặc dù  việc di chuyển bằng các phương tiện phi thị giác đặt ra những thách thức phức  tạp và độc đáo, vẫn còn thiếu nghiên cứu về trải nghiệm giáo dục của người  khiếm thị tại Việt Nam. 

Trong bối cảnh học thuật quốc tế, mặc dù có những nghiên cứu sâu sắc về trải  nghiệm của người khiếm thị trong việc theo đuổi giáo dục hòa nhập ở các bối  cảnh địa lý khác nhau, nhưng chúng thường chỉ tập trung vào việc (1) thách thức  trong học tập của họ (Agesa, 2014; Bishop & Rhind, 2011; Byrne, 2014; Brydges  & Mkandawire, 2017; Croft, 2020; Hewett et al., 2019; Lourens & Swartz, 2016;  Miyauchi, 2020; Reed & Curtis, 2012; Palan, 2021; Lourens, 2015; de Verdier,  2016; Le Fanu, Schmidt, & Virendrakumar, 2022; Morelle & Tabane, 2019;  Ralejoe, 2021; Odame et al., 2021), (2) chiến lược thích ứng của họ (Almog,  2018; Croft, 2020; Lourens, 2015), (3) những điều chỉnh có sẵn hoặc có thể có 

để ứng phó với các rào cản (Almog, 2018; Bishop & Rhind, 2011; Hewett et al.,  2019; Morelle & Tabane, 2019; Lourens & Swartz, 2016; Schmidt &  Virendrakumar, 2022; Simui, 2018; Ralejoe, 2021), và (4) cảm xúc của họ trong  môi trường trường học hòa nhập (Jessup et al., 2017; Lourens, 2015; Lourens &  Swartz, 2016; Simui, 2018). Nếu có nhắc đến việc chăm sóc (giúp đỡ, hỗ trợ  hoặc điều chỉnh), người khiếm thị thường chỉ được mô tả là người nhận sự quan  tâm và chăm sóc. 

Tuy nhiên, quan sát và trải nghiệm của tôi với bố tôi – một người mù, và những  người mù khác trong bối cảnh giáo dục hòa nhập ở Việt Nam lại cho thấy điều  ngược lại. Từ góc độ đạo đức chăm sóc (ethics of care), tôi tin rằng người mù,  như bất kỳ ai khác, chắc chắn có thể trở thành người chăm sóc, bằng sự quan tâm  và hành động chăm sóc cho bản thân và người khác, chứ không chỉ đảm nhận vai  trò thụ động – hoặc được giúp đỡ hoặc bị phân biệt đối xử. Hơn nữa, bằng việc  nhìn các trường học hòa nhập như những cảnh quan chăm sóc, tôi có thể quan  sát rằng trái ngược với niềm tin của nhiều người, tính ưu tiên thị giác của môi  trường hòa nhập không phải lúc nào cũng dẫn đến việc người mù bị gạt ra ngoài  lề và bị thiệt thòi. Không gian vật lý, hoặc bất kỳ sản phẩm, dịch vụ và kiến trúc  nào được tạo ra bởi con người, có thể cản trở khả năng tiếp cận, nhưng “quan  tâm và chăm sóc” không bị giới hạn bởi điều đó. Sự quan tâm và chăm sóc tồn  tại trong mạng lưới quan hệ của con người: nơi mọi người quan tâm đến và chăm  sóc cho nhau. Trong bối cảnh giáo dục, cụ thể hơn, chăm sóc cũng có thể được  tìm thấy trong các mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh, ngoài thiết kế vật lý  của trường học và chương trình giảng dạy thường xuyên cố định. 

2. Tổng quan tài liệu công trình nghiên cứu liên quan 

2.1. Khuyết tật 

Nghiên cứu của tôi nằm trong phạm vi lĩnh vực nghiên cứu khuyết tật. Nghiên  cứu khuyết tật, một lĩnh vực trẻ và liên ngành, xuất hiện vào những năm 1980  cùng với phong trào quyền lợi của người khuyết tật để phản ứng lại lịch sử áp  bức và phân biệt đối xử đối với người khuyết tật. Lĩnh vực này, dựa trên mô hình  xã hội về khuyết tật, thách thức mô hình y tế truyền thống cho rằng khiếm khuyết  là do cá nhân gây ra: Nó lập luận rằng xã hội làm người khuyết tật bị thiệt thòi  bằng cách tạo ra các rào cản loại trừ họ. Sứ mệnh cốt lõi của nghiên cứu khuyết  tật là nâng cao nhận thức về khuyết tật, đảm bảo quyền công dân của họ và thúc  đẩy một thế giới bao trùm hơn. 

Cùng với phong trào quyền của người khuyết tật và sự ra đời của ngành nghiên  cứu khuyết tật, định nghĩa khuyết tật của WHO đã có sự thay đổi. Khuyết tật hiện  nay chính thức được WHO mô tả là kết quả của mối quan hệ phức tạp giữa tình  trạng sức khỏe của một cá nhân, các yếu tố cá nhân và các yếu tố bên ngoài đại  diện cho hoàn cảnh sống của cá nhân đó, “một hiện tượng đa chiều phát sinh từ  sự tương tác giữa con người và môi trường vật lý và xã hội của họ” (WHO, 2001,  tr. 250). 

Tại Việt Nam, khuyết tật gắn chặt với những niềm tin văn hóa, bối cảnh lịch sử,  khung chính sách đang phát triển và các xu hướng toàn cầu rộng lớn hơn. Khuyết  tật ở Việt Nam trong lịch sử và văn hóa thường được xem là một khuyết điểm cá  nhân hoặc hậu quả của nghiệp báo không thể tránh khỏi. Câu chuyện Sọ Dừa  minh họa cho ý thức hệ khuyết tật ẩn sâu trong cộng đồng. Cũng trong văn hóa  truyền thống của Việt Nam, hát Xẩm là một đóng góp quan trọng của người  khuyết tật, đặc biệt là những người mù, cũng như là một cách kiếm sống cho họ.  Sau đó, cả giai đoạn thuộc địa và hậu thuộc địa đều được đánh dấu bởi việc thể  chế hóa và bình thường hóa khuyết tật thông qua các trường chuyên biệt, trại  cách ly và nỗ lực phục hồi chức năng. Hiện tại, thế kỷ 21 đã chứng kiến những  phát triển đáng chú ý trong lĩnh vực pháp luật. Việc Việt Nam phê chuẩn Công  ước Liên Hợp Quốc về Quyền của Người Khuyết tật (CRPD) vào năm 2014 và  ban hành Luật Người khuyết tật năm 2010 cho thấy sự đồng thuận của đất nước  với những nỗ lực toàn cầu về quyền của người khuyết tật. Tuy nhiên, luật vẫn  mang tính hiểu biết y tế và chức năng về khuyết tật và một ý thức hệ của sự bình  thường hóa. 

2.2. Sự quan tâm và chăm sóc 

Quan tâm và chăm sóc được hiểu một cách đơn giản nhất là cảm giác hoặc thể  hiện của sự quan tâm đối với điều gì đó hoặc ai đó, một loại hoạt động bao gồm  “mọi thứ chúng ta làm để duy trì, tiếp tục và sửa chữa ‘thế giới’ của mình để  chúng ta có thể sống tốt nhất có thể. Thế giới đó bao gồm cơ thể của chúng ta,  bản thân chúng ta và môi trường xung quanh chúng ta” (Fisher et al., 1990, trang  34). 

Dựa trên sự thay đổi trong định nghĩa của “sự quan tâm và chăm sóc” từ công  việc chăm sóc truyền thống sang “đạo đức quan tâm” (ethics of care) như một  cách để đạt được công bằng, từ sự phụ thuộc đến sự dễ bị tổn thương toàn cầu và  sự phụ thuộc lẫn nhau, từ chăm sóc như một thực hành đơn phương giữa người  nhận và người chăm sóc sang quan tâm được đặt trong một bối cảnh của sự phụ  thuộc lẫn nhau, tôi đề xuất cách hiểu về “chăm sóc” trong nghiên cứu khuyết tật.  Trước hết, bối cảnh chăm sóc được đặc trưng bởi tính đa chiều và đa hướng. Tính  đa hướng có nghĩa là chăm sóc tồn tại trong một mạng lưới thay vì một chiều  giữa người cung cấp và người nhận. Do đó, những người khuyết tật, thường được  gán nhãn là chỉ nhận chăm sóc và phụ thuộc, có thể là người cung cấp chăm sóc  – họ chăm sóc cho bản thân cũng như cho người khác trong bối cảnh này. Tính  đa chiều ngụ ý rằng một người có thể được chăm sóc trong các không gian và  quy mô khác nhau – từ không gian cá nhân đến công cộng, từ thể chất đến cảm  xúc, hoặc trong mối quan hệ cá nhân hay trong mối quan hệ với các tổ chức như  bệnh viện hoặc trường học. Thứ hai, bối cảnh chăm sóc bao gồm con người và  môi trường nơi các tương tác chăm sóc diễn ra giữa con người với nhau và giữa  con người với môi trường. Trong bối cảnh chăm sóc, chăm sóc không chỉ định  hình phản ứng của con người đối với nhu cầu và sự dễ bị tổn thương của người  khác, mà còn ảnh hưởng đến thiết kế môi trường xây dựng và các hoạt động mà  con người thực hiện trong sự tương tác với môi trường đó. Các chuẩn mực và  cấu trúc xã hội, văn hóa và chính trị vừa định hình vừa bị định hình bởi bối cảnh  chăm sóc. 

Trong nghiên cứu này, trải nghiệm học đường của người mù được tiếp cận trong  phạm vi giáo dục hòa nhập – một bối cảnh chăm sóc. Trong bối cảnh này, chăm  sóc nằm ở trung tâm của trạng thái tinh thần của con người (như trong quan tâm  đến) và các hành động lao động (như trong chăm sóc cho) cũng như ảnh hưởng  đến môi trường xây dựng. Cụ thể hơn, trong các môi trường học đường hòa nhập,  bất kỳ sự điều chỉnh nào nhằm đáp ứng nhu cầu của những người này về một  phương tiện học tập đặc biệt và hoạt động hàng ngày tại trường, cách họ quan  tâm đến và chăm sóc cho bản thân cũng như cho người khác trong một mạng lưới  quan hệ chăm sóc, và bất kỳ nỗ lực nào nhằm cải thiện triển vọng nghề nghiệp  của họ đều là những khía cạnh trọng tâm của chăm sóc được tập trung trong  nghiên cứu này. Theo cách hiểu này về bối cảnh chăm sóc, trong chương tiếp  theo, tôi sẽ trình bày chi tiết về cách hiểu giáo dục hòa nhập như một bối cảnh  chăm sóc. 

2.3. Giáo dục hòa nhập 

Giáo dục hòa nhập dựa trên triết lý về sự hòa nhập – hay như UNESCO (2017)  đã đề xuất, là “quá trình tăng cường năng lực của hệ thống giáo dục để tiếp cận  tất cả người học” (tr. 7). Hòa nhập bao gồm việc giải quyết sự loại trừ và phân  biệt đối xử mà những người bị coi là “khác biệt” phải đối mặt do các yếu tố như  khuyết tật, sắc tộc, ngôn ngữ hoặc nghèo đói. Điều này đòi hỏi sự thay đổi trong  thái độ và thực tiễn của các cá nhân, tổ chức và hiệp hội để đảm bảo sự tham gia  đầy đủ và bình đẳng của tất cả các thành viên trong cộng đồng. Một xã hội hòa  nhập tôn trọng và đánh giá cao sự khác biệt, chủ động chống lại sự phân biệt và  định kiến trong các chính sách và thực tiễn để tạo ra môi trường nơi mọi người  đều có thể đóng góp một cách ý nghĩa vào đời sống và văn hóa cộng đồng  (McConkey, 2001). Giáo dục hòa nhập do đó được xây dựng trên nguyên tắc  rằng mọi học sinh, bất kể khả năng hay xuất thân, đều có khả năng học tập và  xứng đáng được tiếp cận với một chương trình học có ý nghĩa và thách thức được  thực hiện trong lớp học phổ thông. Điều này đòi hỏi việc áp dụng các phương  pháp giảng dạy được thiết kế phổ quát, dựa trên bằng chứng, đáp ứng văn hóa và  phân hóa, phù hợp với các thế mạnh, thách thức và trải nghiệm đa dạng của tất  cả người học (Salend, 2010). Để đạt được điều này, cần có sự thích ứng và chuyển  đổi trong giáo viên, trường học và hệ thống để đáp ứng hiệu quả các nhu cầu đa  dạng của học sinh và đảm bảo sự tham gia đầy đủ của họ vào tất cả các khía cạnh  của đời sống học đường. Hơn nữa, việc này còn liên quan đến việc xác định và  xóa bỏ bất kỳ rào cản về vật chất hay thái độ nào trong và xung quanh môi trường  trường học gây cản trở học tập. Tóm lại, có thể nói rằng giáo dục hòa nhập là  việc áp dụng tư duy mô hình xã hội (social model of disability) vào các thực tiễn  giáo dục, trong đó nhấn mạnh sự tồn tại của “các rào cản đối với việc học tập và  tham gia” và tìm cách giảm thiểu những khuyết tật được tạo ra bởi các thái độ và  hành động phân biệt đối xử cũng như các rào cản của các thể chế (Booth &  Ainscow, 2002). 

3. Ý nghĩa khoa học 

Qua lăng kính “cảnh quan của sự quan tâm và chăm sóc,” tôi muốn làm sáng tỏ  hành trình khám phá, mở rộng và hình thành các cảnh quan của sự quan tâm và  chăm sóc riêng của họ với mạng lưới hỗ trợ từ những người xung quanh. Sự hạn  chế của khả năng nhìn có thể cản trở việc di chuyển trong không gian vật lý,  nhưng không gian xã hội và cảm xúc có thể được mở rộng với sự chủ động của  họ – việc chăm sóc vẫn có thể tồn tại trong các mối quan hệ giữa con người.  Bằng cách này, tôi hy vọng sẽ mang đến những mô tả nhân văn hơn về hành trình  đi học của họ, bên cạnh những câu chuyện truyền thống về khó khăn và hình mẫu  kiên định để vươn lên, thường thấy trong bối cảnh Việt Nam. Những mô tả này  cũng có thể đóng góp vào tri thức về trải nghiệm học đường của học sinh khiếm  thị tại Việt Nam, từ đó, hy vọng sẽ thúc đẩy các thay đổi trong chính sách và thực  tiễn giáo dục liên quan đến việc học của những người học khiếm thị. Hơn nữa,  tôi cho rằng, quan niệm người khiếm thị chỉ là những người nhận quan tâm và  chăm sóc thường thấy còn phiến diện. Từ góc độ đạo đức chăm sóc, tôi cho rằng  người khiếm thị có thể là người chăm sóc, và các mối quan hệ chăm sóc là đa  chiều.